Sau hơn 30 năm xa cách, tôi đã...... trở về đất Huế-một vùng đất tương phản thiên thu: Huế, đất của những con người “tâm sự nhiều mà ít hé trên môi” và “thường hay sầu giữa lúc thế gian vui” như thơ của Bích Lan! Và Huế còn trứ danh ác liệt qua nhận xét đầy triết lý của Foulon, nơi mà “tang tóc ngậm cười và niềm vui não nuột” (…le deuil sourit, la joie soupire)!
Ấy vậy mà trong chuyến về thăm lại Huế trong tháng ba vừa qua, vợ chồng người em gái tôi lại rủ tôi viếng thăm một địa điểm với cái tên quái dị là “Thành Phố Ma”!
Nơi đây là làng An Bằng cách cửa Thuận An khoảng bốn chục cây số. Theo lời giới thiệu trịnh trọng của người em rể: Nơi đây linh hồn người chết không ngậm cười nơi chín suối như người ta thường nói, mà phải bảo rằng những hồn ma ở đây reo cười rạng rỡ.
Reo cười là đúng vì chốn này du khách sẽ bị choáng ngộp vì những kiến trúc mộ phần, lăng tẩm muôn mầu muôn vẻ tuơi vui… Chùa ở An Bằng. Thế là chiếc xe bao thuê Daihatsu nhỏ nhắn bẩy chỗ ngồi, chúng tôi đi thăm làng An Bằng với một niềm vui háo hức đầy tính chất nghịch lý này.
Dựa trên những dữ kiện lịch sử, địa lý, nhân văn viết về làng này trên những báo chí địa phương, người em gái của tôi ngồi trên xe đã trò chuyện dẫn dắt chúng tôi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác: Nói là làng, chứ An Bằng chỉ là một thôn nhỏ của những người chài lưới duyên hải. Thôn An Bằng thuộc xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm cách cửa biển Thuận An về phía nam khoảng 40 cây số.
Thôn An Bằng được mô tả cô lập như ốc đảo với biển cả và đầm phá bao quanh: biển ở phía đông, đầm phá Tam Giang vây khắp phía còn lại, nên thôn làng nối với đất liền chỉ bằng con đường nhỏ trên bộ chạy dài từ Thuận An chạy qua con đập đắp qua cửa Hòa duân. Địa thế của làng An Bằng khiến tôi nhớ đến bài thơ Quê hương của Tế Hanh:
Làng tôi ở, vốn làm nghề chài lưới.
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.
Dân trai tráng bơi thuyền đi dánh cá…
Nhà thờ Thánh Tâm ở An Bằng Theo tài liệu địa bạ của tỉnh Thừa Thiên dưới triều Nguyễn, diện tích thôn An Bằng có 1201 mẫu 1 sào toàn là cát trắng! Vì là sống trên vùng toàn là đất cát trắng, nên dân làng chỉ sống chủ yếu về chài lưới. “Trước đây chúng tôi cực lắm – một người dân An Bằng tiết lộ – Làm nghề cá khi gặp mặt trời yên bể lặng thì đủ ăn. Còn không thì ăn cháo xương rồng…” (phóng sự của Hồ Vĩnh: “Xa rồi Thành phố lăng”, Tuyển tập Nhớ Huế số 5, Nhà Xuất bản Trẻ).
Món xương rồng ăn đỡ dạ thì không sao, nhưng ăn nhiều thì mặt phù thũng. Cái cực khổ này còn bi đát hơn với sự kiện ”đến chất đốt sử dụng để nấu nướng và sưởi ấm mùa đông cũng chỉ là những nhánh thông èo uột khẳng khiu mà trẻ mót lượm trên vùng cát trắng miền trung, vốn khô cằn lũ lụt hằng năm” (theo tài liệu của Tổng đội Xây lấp Thanh niên Đà Nẵng – tháng 11 năm 2000).
Nhưng rồi bắt đầu vào khoảng năm 1990, qua sự cởi mở của nhà nước, thôn An Bằng nghèo khổ bỗng như nàng Lọ Lem trở thành công chúa. Khi thăm thôn làng này với một tổng thể phong phú của những ngôi lăng mộ nguy nga cất bằng bê tông, nhà du lịch người Pháp tên André Crozeilles phải thốt lên kinh ngạc “Một vùng cát trắng mà trở thành một đô thị người chết!
*BÀN TAY TA LÀM NÊN TẤT CẢ
Do đâu mà làng An Bằng đã thay hồn đổi xác? Câu trả lời là Tiền viết hoa! Vào giai đoạn sau 1975 trong đợt đánh tư sản, có tiền, có vàng là một cái tội bị tù, bị đi vùng Kinh tế mới. Nhưng sau đó thì hoàn toàn tương phản lại, nhất là giai đoạn mà nhà nước cởi trói đổi mới: Tiền là Tiên, là Phật Là sức bật của lò xo. Là thước đo lòng người, Là nụ cười của tuổi trẻ, Là sức khỏe của người già! Là cái đà danh vọng, Là cai lọng che thân, Là cái cân công lý, Tiền là hết ý! Mà tiền đây không phải là đồng tiền Việt Nam có in hình Bác Hồ mà là đồng US Dollars, một đồng ăn 14 ngàn 5 trăm đồng VN. Thậm chí, tiền vàng mã bán ở Việt Nam cũng phải in thành giấy Năm trăm đô la Mỹ mà đốt thì ông bà mới ngậm cười dưới suối vàng…
Theo ông Hồ Vĩnh, toàn xã Vinh An có 1.800 hộ dân, trong đó thôn An Bằng có khoảng 800 hộ nhưng có đến 75% dân có người thân là Việt Kiều. Theo Nhật báo Lao Động ngày 13 tháng 10 năm 2000, tuy con số hộ dân An Bằng chỉ có khoảng 870 nhưng có đến hơn 1200 ngôi mộ, nhà thờ họ tộc, đình làng mới xây hoặc xây đi xây lại ba bốn lần, chen lẫn trong các khu gia cư. Theo tờ Thế giới mới 31 tháng 8 năm 2000, thì làng An Bằng có 43 tộc họ “nghĩa là có 43 từ đường được con cháu đóng góp để xây sao cho kềnh càng hoành tráng…
Thấy từ đường họ H. bên cạnh liên tục tái thiết ba đợt, mỗi đợi thêm tốt đẹp, họ L. liền cho đập đi, xây lại từ đường của mình những bốn lần, mỗi lần cách nhau chỉ dăm tháng. Mà chi phí cho việc xây mới đâu ít ỏi gì, mỗi lần cả trăm ngàn đô!” Do đó, ta phải kết luận rằng đồng đô la mỹ quả là có sức bật kinh khủng của Tiên, của Phật vì riêng làng An Bằng và các làng kế cận, đô la là lăng mộ của người già. Với quan niệm “sống gửi thác về” và “sống nhờ mồ nhờ mả, chứ không nhờ cả bát ăn”, trong số bao nhiêu lăng mộ xây cất ở làng An Bằng có rất nhiều ngôi sinh phần tráng lệ phá đi xây lại nhiều lần mà con cháu ở hải ngoại muốn chí tình ôm đô la về để đền đáp công ơn sinh thành của những bậc cha mẹ đang còn sống mặc dù gia cảnh rất khiêm tốn, nếu không nói là cơ cực.
Trong bài Lễ hội cầu ngư ở Thuận An. (trong tập Hỏi đáp về Triều Nguyễn và Huế xưa – nhà Xuất bản Trẻ), ông Nguyễn Đắc Xuân không biết có bôi bác không đã ghi lại rằng: “Các nhà hoạt động xã hội từ thiện này thì không thể quên cách đây vài chục năm, vào những tháng mưa lạnh kéo dài, dân Thuận An không thể đi biển được, họ phải thường chống gậy lên Huế xin ăn” (trang 104).
Bấy lâu nay, nhà nước Việt Nam cố tình không muốn nhắc tới sự kiện người dân vượt biển! Vì vượt biển là chống đối cách mạng, là “bỏ phiếu bằng chân” tìm tự do mới bỏ xứ ra đi! Vượt biển là cái tội mà công an nếu bắt được thì bỏ tù dù là trẻ con còn đang bú mẹ. Nhưng nay thì sức mạnh Tiên Phật của đô la làm người cộng sản phải gọi dân Việt kiều trở về là “núm ruột ngoài ngàn dặm” với bó đô la đem về giúp nước.
Cũng trong bài dẫn trên, ông N.Đ.Xuân viết: “Các cơ quan an ninh, sau 1975, đã từng nhức đầu vì Thuận An có tỷ lệ vượt biển cao nhất ở Việt Nam. Có nhiều hộ có đến năm sáu người bỏ nước ra đi” (trang 104). Có nguồn dư luận như ông Hồ Vĩnh trong bài “Xa rồi Thành phố lăng” nhắc ở trên rằng dân Việt kiều An Bằng phung phí, “không biết tích cóp để giảm bớt kinh phí trong việc “bê tông hóa” lăng mộ thì An Bằng sẽ có một trường học khang trang nằm cạnh ngôi đình mới xây dựng, nhằm giữ lại nét đẹp của truyền thống văn hóa”.
Ý kiến này rất xây dựng nhưng không phải dân Việt kiều An Bằng không nghĩ tới như trong bài “Một ngôi trường cho làng An Bằng” của Nguyễn Bá Trác trên báo Việt Mercury số 107 ngày 9 tháng 2, 2001 qua ý kiến của hai ông Văn Nhân Đạo và Lê Thanh Lâm gốc An Bằng trong chuyến về thăm Việt Nam đã tiếp xúc với Hội Khuyến khích và Hỗ trợ phát triển giáo dục Việt Nam để thăm dò dự án. Nhưng dự án của hai vị Việt kiều có tâm huyết có thực thi được hay không lại là một chuyện khác, tùy theo cái nhìn đa nghi Tào Tháo của chính quyền địa phương đối với cái nhiệt tâm của hai ông. Bộ muốn dùng đô la mà “diễn tiến hòa bình” sao đây!
Vả lại, nói chí tình, lo việc công ích xây cầu, xây chợ, xây trường là bổn phận của chính quyền phải lo cho dân kia mà! Sao lại trông nhờ vào tiền mồ hôi nước mắt của dân Việt kiều làm việc lam lũ ở hải ngoại đem về! Còn về luận điệu trách cứ dân An Bằng nghèo khổ bỗng nẩy ý xây mộ kiểu vương giả để báo hiếu cho cha mẹ tổ tiên là quá đáng?
Nếu vậy thì người ta nghĩ thế nào về chính quyền Huế vì ham kiếm chút ngoại tệ, đã tổ chức trò hề cho du khách ngoại quốc mặc áo hoàng đế, hoàng hậu ngồi trên ngai chụp ảnh ở nhà Hữu Vu sau điện Thái Hòa, hoặc dùng Ngự Thiện (ăn cơm vua) trong cung nội tôn nghiêm của Hoàng thành? Trên một khía cạnh nhìn, chuyện xây lăng mộ của người dân An Bằng và ở các làng ven biển Thuận An Huế là một dịp mà người dân giã, tuy là do động lực háo danh, đã vô tình phục chế lại những nét kiến trúc cổ truyền trong các kiểu lăng mộ vương giả gần như bị thất truyền từ hồi hết vua chúa năm 1945! Người cộng sản Việt Nam thường ca tụng cái lý tưởng: Bàn tay ta làm nên tất cả, Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm!
Không biết ta có nên sửa lại là Đồng đô la làm nên tất cả, Với đô la, dân giã cũng thành vua! Trong chuyến xe từ Thuận An xuôi về nam dọc theo phá Tam giang cho đến địa danh An Bằng. Có thể nói mọi chùa chiền, am miếu, đình làng nhà thờ họ đều được xây cất trong vòng vài năm nay. Hồi xưa kia đây chỉ là những thôn chài nghèo nhà tranh vách lá với vùng mộ địa cát trắng mênh mông. Cây cối không đủ sức mọc vì nước ở đây vừa lợ lợ vừa lắm phèn. Ngày nay, dài dài theo đường, tôi thấy phần nhiều nhà cửa bằng vật liệu nặng, lai rai có nhà hai tầng, không to lớn gì nhưng khang trang tuy có đôi chút “kiểu cọ”
Không khí ở đây có nhiều nơi nặng mùi cá mắm. Điều làm tôi kinh ngạc là những cổng tam quan to lớn, những trụ biểu khổng lồ có rồng quấn của những nhà thờ họ. Tôi đã bị choáng ngợp trước một ngôi lăng có kiến trúc đặc biệt nằm xoay ra mặt đường: Mặt tiền là lưỡng sư triều đỉnh (cặp sư tử chầu đỉnh đốt trầm), kế đó là bốn cột trụ tam quan lớn chạy rồng ôm không soát một vòng tay, trên đầu chóp trụ (chapiteau) là hai tầng lòng đèn (lanterne) với góc mái cong vút với motif ngọn lá, bốn đỉnh trụ là bốn con nghê (kỳ lân). Sau bốn trụ tam quan, là bi đình (nhà bia). Nhà này nền dưới vuông vức có bốn cột nâng một cái mái tròn có hai tầng, ý hẳn tượng trưng hình ảnh vuông tròn của vũ trụ.
Phần vuông dưới trang trí theo nét Trung Hoa có một bia đá bằng đá granito màu xám đội bởi con rùa vàng và diềm mái chạy hoa sen. Nhưng phần mái tròn ở bên trông có vẻ chịu ảnh hưởng đậm đà của mỹ thuật Ấn-độ hay Ba-tư, vòng cung của cửa vòm là một hình tròn bán nguyệt với hai đầu hơi cúp lại. Nóc vòm trông giống như cái lọng hay hình cái bảo bình chứa cốt Phật, nhưng cái lan can lại chạy hình hoa huệ của Tây phương thật khó phê phán. Kế đó là hai nhà thạch quách (sarcophage) còn gọi là tẩm, chứa hai cái áo quan bên trong theo kiểu song táng, trong quan ngoài quách kiểu như lăng vua Gia long theo ý niệm Càn khôn hiệp đức. Cuối cùng là một bức hậu bình phong đồ sộ tô điểm với hai hình cuốn thư. Trên bia granito, có khắc một bài thơ bằng chữ quốc ngữ thếp vàng nhũ như sau:
Lăng mộ nguy nga Thành tâm sáng lập năm 2000
KHIÊM VĂN BIA BÁO SONG THÂN
Ân cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như biển đại dương Thái bình.
Cháu con cùng một nguồn sinh,
Đời đời nối dõi chút tình báo ân,
Nhớ ơn tạo hóa xoay vần,
Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn.
Diện tiền núi Ngự Trường sơn,
Tam giang phẳng lặng châu thuyền vãng lai,
Mặn bồi một dải đất dài,
Thái bình lãnh hải an bài tôn lăng,
Mùa hè Ất sửu khởi công,
Khánh thành an vị đầu xuân, Mậu dần
Hai ngàn năm Mão cuối đông,
Lòng thành con cháu vui mừng tạo bia,
Được nhờ phúc ấm xưa kia,
Ngàn năm xây dựng lăng bia an lành.
Đàn con cháu nội ngoại nam nữ từ hải ngoại.
Lời thơ lục bát nhiều câu gieo lạc vận, nhưng ý rất chân thành cảm động, phản ảnh đúng thực tế trước mắt: Mặn bồi một dải đất dài, Thái bình lãnh hải an bài tôn lăng. Nhưng câu Nhớ ơn tạo hóa xoay vần, Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn. Ngẫm nghĩ lại nghe sao mà đúng thế. Nếu tạo hóa đất trời không xoay vần đổi ngược, dân chài nghèo khó ven biển đâu có chuyện vượt biển, họ đâu có trôi dạt qua cái “xứ Hoa kỳ của cơ hội” để con cái họ đâu có cơ duyên học hành thành kỹ sư, bác sĩ, và cuối cùng họ đâu có đem đô la về xây lăng báo hiếu nhỉ!
*THỊ TRẤN CỦA QUÁ KHỨ LÀ ĐÂY!
Cuối cùng chúng tôi đã tới An Bằng một địa điểm nhỏ với quá nhiều tên: Thành phố Ma, Đô thị của Người chết, Thành phố Lăng và Thị trấn của Quá khứ. Theo như chúng tôi quan sát, nhà cửa trong vùng xây cất không bao nhiêu, có lẽ không có nhu cầu cho ít oi người ở lại, người cư trú cũng không muốn gánh thêm phiền hà, tốn kém lôi thôi.
Thành ra chữ Hiếu của người tha phương được tập trung vào việc xây cất lại mồ mả tổ tiên cho thật khang trang, càng khang trang, càng vinh dự. Nhưng cũng nhờ chữ Hiếu của khúc ruột ngàn dặm đã đem lại công ăn việc làm cho bao nhiêu người trong một thời gian dài. Nhờ đó mà đường sá từ Thuận An về lần hồi được chỉnh trang để chở vật liệu mọi thứ từ Huế về, kể cả cát vì ở Thuận An chỉ có cát trắng mịn chỉ đựng vào bình lư cắm nhang là tốt, còn xây cất thì dùng cát vét từ lòng sông Hương chở về. Nền đất ở ven biển là cát nên mọi xây cất phải dùng bê tông.
Người ta nói rằng mộ chôn đất cát thì thây người chạy mất, cải táng không thấy xương. Thử nhìn vào báo cáo vật liệu đọc công khai ngày lễ khánh thành ngôi đình làng An Bằng cũng đủ khiếp: 22 tấn xi măng, 14 tấn sắt thép đủ loại…kim phí tổng cộng hơn 1,4 tỷ đồng bạc VN. Nghề xây lăng mộ vương giả, cất đình cất chùa, xây từ đường hầu như không còn phát đạt như cái hồi còn vua chúa trước 1945. Lớp nghệ nhân cũ thợ ngõa, thợ nề, thợ mộc, thợ chạm theo đường hướng cổ truyền còn sót hiện nay cơ hồi lác đác như lá mùa thu sau bao nhiêu chiến tranh.
Đi tìm lại những tay thợ lão làng – con cháu của lớp nghệ nhân thuộc Nê Ngõa Tượng Cụ của triều đình Huế xưa – còn biết cẩn sành, cẩn sứ chạy rồng chạy phượng trên máy hay trên trụ biểu để truyền nghề cho lớp trẻ cũng thiên nan vạn nan, dù rằng đất Huế vốn là đất đông Phật tử nên có thể còn nhu cầu xây cất lắm chùa, lắm chiền! Người em rể tôi vốn là giáo sư dạy Đại học Mỹ thuật Huế chỉ cho tôi thấy loại sứ đã dùng để cẩn tường.
Dân An Bằng chắc phải mua loại sứ từ ngoài Bắc thuộc xã Bát Tràng gì đó, thứ đồng màu để làm vẩy rồng lông phượng cho thích hợp, công viêc tốn kén đã đành nhưng không phải chóng vánh dễ dàng…
[Theo giáo sư Phan Thuận An - chuyên viên Huế-học và nghiên cứu của Trung Tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, từng qua Bắc kinh du khảo về di tích kiến trúc cung đình Trung quốc, nói rằng: "Tôi không thấy bất cứ ở đâu bên Trung quốc có nghệ thuật ghép sành sứ như của ta ở lăng Khải Định" khi đáp cuộc phỏng vấn của Nguyễn Đắc Xuân trong cuốn Văn Hóa Cố đô - trang 126 - Thuận Hóa Huế - 1997.] Nhìn công trình xây lăng mộ ở vùng Thuận An và làng An Bằng, nếu không nói quá đáng là một kỳ quan, thì người ta phải khen người dân ở đây đã tự động xuất công, xuất của để phục chế lại nghệ thuật cổ truyền, trong khi nhà nước Việt Nam đang vận động, năn nỉ cơ quan UNESCO tài trợ để phục chế lại cung điện và lăng tẩm cho nhu cầu du lịch. Nghe nói tờ báo “Tuổi Trẻ” có đề nghị biến thành phố An Bằng làm khu du lịch…
Nhưng chả bao lâu sau, báo chí khác trên đất Thần Kinh đã mạnh mẽ mắng cái đám người muốn công khai hóa “công việc xấu xa” đó cho toàn thế giới biết sau khi người du khách hỏi do tiền đâu mà xây dựng ra.
*AN BẰNG: NGỌN LỬA PHỤC CHẾ NGHỆ THUẬT BÙNG LÊN CHO LỊCH SỬ SANG TRANG.
Bước vào địa đầu của xã Vinh An, tầm mắt chúng tôi bỗng choáng ngợp như đứng trước một đám nấm kiến trúc khổng lồ đủ mầu, đủ cỡ mọc lên lố nhố trùng điệp sau trận mưa rào
Khác với cảnh dọc đường từ xã Thuận An, âm phần của người chết nơi đây không nằm riêng biệt trên những sườn đồi hay nương vườn xanh tốt mà là trải dài ra trên bình diện lẫn với gia cư dương cơ của người sống. Ở đây, du khách hoàn toàn không có cảm giác âm khí nặng nề, buồn hiu như cảnh nghĩa địa Tây Phương với cảnh ngút ngàn của rừng thánh giá trắng toát dưới rặng dương.
Trái lại, người ta có một cảm giác vui thú bừng lên như đang nhìn ngắm một bức tranh Tết dân gian vẽ với những màu sắc đầy Việt nam tính: đỏ cánh sen, đỏ cam, vàng hòe, lục và tím.
Tác giả Pháp Jean Marquet thật lém lỉnh khi nhận định rằng đám táng Việt Nam “có cái gì vui thú”
(L’enterrement annamite a quelque chose d’amusant!) như trong bài tập đọc Pháp văn Livre Unique của tôi hồi bé. Cái vui thú cho một tâm lý Đông phương về quan niệm “sống gửi thác về” mà dương gian là cõi tạm, âm thế mới thật là nơi vĩnh phúc ngàn thu
Phóng mắt nhìn bao quát, dựa vào những biểu tượng trên những lăng mộ, tôi thấy nơi đây Phật Chúa nằm chung: mộ Phật tử hay dân lương thì trang hoàng với hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp hay ít ra với hình chữ Phúc; còn con chiên Thiên Chúa thì nằm yên nghỉ dưới bóng Thánh giá hay cổng chữ M của mẹ Maria. Vinh quang Chúa cả trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm! Thôn làng An Bằng (hay An Bình) quả đã mang cái tên theo định mệnh dành cho mối duyên tình thiện tâm cho con cái của Phật và Chúa nằm gần nhau.
Đứng trước một rừng gồm hơn cả ngàn lăng mộ trước, với một tâm tình khao khát muốn tìm hiểu, tôi bỗng ước ao có một kiến thức uyên thâm như linh mục Léopold Cadière, nguyên là bỉnh bút cho Tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế – viết tắt là BAVH) hồi đầu thế kỷ 20. Linh mục đã đặc biệt dựa vào sự khảo sát 317 ngôi mộ Việt Nam xây trong vòng chu vi đất Huế từ bực vương giả cho đến người dân mà viết ra bài Tombeaux annamites dans les environs de Hué (BAVH năm 1928).
Ngài đã phân loại những hình thể, kiểu thức của các loại mộ xây (nấm tròn, nấm vuông, nấm trứng ngỗng, nhà thạch quách hay tẩm v.v…); những bờ vây quanh gọi là uynh thành (enceinte) đủ cách tròn, thuẩn, vuông, chữ nhật…; những cổng vào có cột vuông, cột trôn ốc, cột hình giao long; những cổng tam quan vòm cong hay hay hai, ba tầng mái; những hình tay ngai mộ. Ngoài sự phân loại trên, cố Cadière còn mô tả những bức bình phong, những bái đình, những bàn long đình để tế mộ, những nhà bi đình, những miếu thổ thần bản địa v.v…
Muốn thưởng thức những họa tiết trang hoàng hoa lá, bức cuốn thư hay tranh tứ quí hoặc những kiểu sức trang trí biểu tượng cho tính ngưỡng Nho Phật Lão trên các lăng mộ ở đây, tôi thấy cần phải tìm đọc lại cuốn L’Art de l’Annam của H. Gourdon (Paris – 1934) hay L’Art Vietnamien của L. Bezacier (Paris – 1954). Nhưng muốn chuyên biệt hiểu về cố đô thần kinh, tôi phải dò lại từng chi tiết trong cuốn L’Art à Huế của linh mục L.Cadière viết năm 1919 để thẩm định sát về nghĩa địa của làng An Bằng, xã Vinh An.
Tôi nghĩ nơi đây cơ hồ là một cứ điểm cuối cùng ở Việt Nam đã tạo cơ hội phục chế lại đa số những tàn tích nghệ thuật triều Nguyễn do những tay thợ – hậu duệ còn sống sót của những nghệ nhân Nê Ngõa tượng cục trong triều đình Huế ngày xưa. Tôi bỗng dâng lên niềm cảm phục cho những tay thợ cuối mùa đã tạo dựng nên Thị trấn Quá khứ An Bằng này qua bàn tay đa diện đa năng: xây nề cũng họ, đúc chạm cũng họ, cẩn sành sứ cũng họ, và tô màu vẽ lá hoa cũng họ.
Đúng như nhận xét của Dr. L. Gaide & H. Peyssonnaux trong bài khảo sát Tombeau de Kiên Thái Vương (BAVH 1925): Pour achever, nous dirons qu’en Annam, c’est le même ouvrier qui, tour à tour, se fait macon, sculpteur, mosaiste et peintre. Và tôi cũng muốn tạ ơn Trời! Nếu không có hiện tượng Nhờ ơn tạo hóa xoay vần, Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn của dân An Bằng rủng rỉnh đô la thì những người thợ trên đâu có dịp chót thi thố tài năng của họ trong cuối thế kỷ 20. Vì nhìn lại lịch sử nửa thế kỷ qua, tôi thấy đúng là Tạo hóa gây nên cuộc hí trường! Người Cộng sản V.N hồi nào đã chủ trương cực đoan đập phá mà họ gọi là “làm cách mạng”.
Với chiến thuật tiêu thổ kháng chiến năm 1947 nên họ đã không ngần ngại chất rơm thiêu rụi Điện Cần Chánh, Đại cung môn, Điện Khôn Thái, lầu Kiến Trung. Người ta nói rằng quân Pháp lúc tái chiếm Huế mà đổ bộ trễ hơn thì cửa Ngọ Môn và Điện Thái Hòa cũng bị tiêu hủy luôn. Viên tướng Tư lệnh quân đội Đức lúc rút quân khỏi Paris đã không nở thiêu rụi thành phố lịch sử này cơ mà!
Và ngay cả quân đội Pháp thực dân lúc hành quân ở vùng Huế ít ra có điểm này đáng khen là họ bắt gặp những món đồ xưa bị dân chúng “đổ bộ hôi của” cất dấu thì lính Pháp đem về Huế giao trả cho Ủy ban Chấp chánh lâm thời của Việt Nam thời ông Trần văn Lý. Đồ giao trả nhiều đến nỗi ông Trần văn Lý phải lập ra một cơ quan tiếp nhận và quản lý, giao cho cụ Võ văn Nhức, nguyên là Nhất đẳng Thị vệ là người tiếp nhận và kiểm kê. Người Cộng sản VN miệng thì nói Cách Mạng trước sau như một, nhưng hành động từ cực đoan này sang cực đoan kia. Họ đã chống Trời, chống tôn giáo tín ngưỡng, chống thờ cúng, chống vua chúa, chống phong kiến, chống tư sản…
Chống đủ thứ rồi lại sửa sai! Trong vòng thập niên qua, họ hô hào “cởi trói và đổi mới” nên dần dà họ cho phục chế trở lại như xưa. Nếu họ quả là thành thực “hồi tâm” thì tôi nghĩ là lịch sử dân tộc sắp sang trang. Mong vậy thay! Chúng tôi không có thì giờ thăm tỉ mỉ toàn khắp ngôi làng. Và cũng không đủ kiến thức nhận định về khía cạnh nghệ thuật của những lăng mộ ở đây. Trong các lăng mộ ở đây, tôi đặc biệt chú ý một vài lăng mô khá tiêu biểu ở đầu làng mà chụp hình kỹ lưỡng. Một ngôi mộ theo Phật giáo xây năm 1999 với những hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp luân đúc trên cổng tam quan, cột chạy rồng cẩn sứ xanh với những họa tiết tứ quì: mai lan cúc trúc.
Muốn lên cổng tam quan này, du khách phải bước lên năm bậc cấp, hai bên trang trí cặp kỳ lân, ở chính giữa là một đỉnh trầm màu vàng hoe lớn cao nửa tầm người; đỉnh đứng trong một vòng cung chạy hình đúc mây khói. Sau cổng tam quan, là bia hay bi đình có một tầng mái hình lục giác với góc cong lên, lợp ngói hoàng ly. Đặc biệt trên từng mái bi đình là một cái tháp tròn có tượng Phật ngồi có hai tầng mái trông xa giống cái bảo bình đựng cốt Phật, riềm mái chạy hoa sen. Trên chót đỉnh bi đình cũng như trên chót bốn trụ cổng tam quan là hình năm quả bầu, tượng trưng cho bầu Thái cực. Sau bi đình là những ngôi tẩm chứa những thạch quách tô điểm với họa tiết chữ Vạn và hoa sen.
Cuối lăng là một cổng sau với ba tầng mái với lưỡng long triều nguyệt. Nhưng điều làm tôi chú ý nhất và cho là có ý nghĩa minh giải nhất là đôi bằng chữ nho tô màu cánh sen trên hai cột cổng tam quan: Tiền Tây Nam chiếu sa bồi Mỹ địa tân. Hậu Đông Bắc tiếp thủy hải Giang sơn cựu. Mặt Tây Nam trước mộ chiếu hướng về vùng cát bồi có nước Mỹ mới. Phía Đông Bắc sau lăng tiếp giáp biển sông là Quê cũ Việt nam. Câu này tả vị trí của ngôi mộ nhưng đồng thời cũng gói ghém tâm tình của những người con cháu lập mộ, tuy rằng trước mắt có một “quê Mỹ đẹp mới” (Mỹ địa tân) nhưng vẫn không quên sau lưng tình nước non của quê Việt cũ (giang sơn cựu). Phải chăng là nhờ Tạo hóa xoay vần!
Nếu không thì người dân thôn chài nghèo khổ sao lại có hai quê hương như vậy. Nhưng họ đã cư xử đầy nghĩa tình đôn hậu: có mới nhưng không quên cũ, uống nước nhớ nguồn. Những lăng mộ mà họ bỏ tiền mồ hôi nước mắt cho ông bà cha mẹ – không những là một hình thức để báo đền ân nghĩa – mà còn là một cơ hội để họ thực thi lại cái đẹp khuôn sáo ước lệ cổ kính của dân tộc mà bấy lâu bị cấm đoán hay mơ ước mà không thể thực hiện được vì thiếu tài chánh. Những kiểu thức, họa tiết đầy ước lệ trên những ngôi mộ trong mắt họ vẫn là những ký hiệu để người dân chất phác tìm thấy sức mạnh truyền đạt những ước mơ, khát vọng về một niềm hạnh phúc của người dân trong lòng một xã hội an lạc, đất nước thái bình, hơn là tin theo những khẩu hiệu tuyên truyền của Nhà nước về một lý tưởng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngôi lăng thứ hai tiêu biểu mà tôi chụp là của những người dân An Bằng theo Thiên Chúa. Cổng tam quan của lăng theo những người thợ đang xây nói kinh phí xây cũng khoảng 30 ngàn đô. Cổng này nhìn đại thể cũng giống bên lương với cột chạy rồng với hai tầng mái lợp ngói lưu ly vàng. Nếu con số 3 của cổng theo Phật giáo là Tam bảo: Phật Pháp – Tăng, nhưng hiểu linh động với quan niệm Thiên Chúa giáo là Chúa Ba Ngôi.
Nhưng những điểm khác biệt mà tôi nhận xét trên cổng tam quan Thiên chúa giáo như sau: -trên cổng giữa hình vòng cung có chén Mình Thánh Chúa tỏa hào quang -những chót cột trụ hình nhọn hoắt theo kiểu Gothic vút lên cao -các họa tiết trên hai cột giữa hay các hộc vuông dưới diềm mái là hình thánh tâm, quả tim quấn vòng gai rướm máu và các hình ảnh trích từ Kinh thánh Tân ước hình Chúa giảng trên núi về tám mối phúc thật, hình Chúa trên biển hồ Ga-li-lê… -màu xanh của Đức mẹ Maria được dùng ưu thế để tô bốn cái cột tam quan hay tranh vẽ họa tiết. Sau cổng tam quan là những tẩm chứa quan tài của những người quá cố.
Cuối lăng là kiến trúc một bàn thờ với hình Thánh giá mầu xanh và hình chim bồ câu Thánh linh màu trắng. Trên đường xe trở về thành phố Huế, sau khi thăm lăng mộ vùng Thuận An và làng An Bằng xã Vinh An, tuy rằng mệt nhoài nhưng riêng tôi cảm thấy lời của người em rể là ý vị: Người chết ở đây đang reo cười dưới những mộ phần.
Bs Lê văn Lân
--
Nguyễn-Anh
Khoa16apchienluoc@googlegroups.com
Contact: anhn08340@gmail.com