Chuyện vượt biên hay vượt biển thì nhà nào chả có, nhất là vào những năm đầu khi việt cộng chiếm được miền Nam. Chuyện thì thiên hình vạn trạng, đủ kiểu, vì có thể bà con cô bác có thể đã từng là nhân vật chính hoặc đã nghe lại từ gia đình, người xung quanh về cuộc vượt ngục vĩ đại trong lịch sử Việt Nam sau ngày “toàn trị”. Đã có rất nhiều sách vở ghi lại những “trang sử” đau thương đó hoặc cho chính mình hoặc là những nhắc nhở cho thế hệ sau về những “holocaust” của Việt Nam.
Tháng 7 này là đúng 5 năm ngày cố ký giả Lê Thiệp lìa đời, nhân dịp này xin giới thiệu đến quí vị hồi ký dưới đây về chuyện vượt biển của chính tác giả. Ông đã hoàn thành chỉ 1 tháng sau (6/78) khi được tàu Đại Hàn cứu vớt vào Nhật. Tất cả những chi tiết và nhân vật trong hồi ký của ông đều là người thật, việc thật
Sôi nổi, sống động, gay cấn, cảm động..... là một lối viết có một không hai của Lê Thiệp, không cần phải giới thiệu thêm vì “nói năng chi cũng bằng thừa”. Bảo đảm không “hay” không.... ăn tiền.
Vũ Đăng Khuê
Mời bạn ta vào chuyện:
Giã Từ Chế Độ
Những dự tính
Khuôn mặt Tư Nhiễn vốn đen sạm, nay lẫn trong bóng đêm Rừng Sát như tối hẳn lại. Anh bó gối nằm trong khoang thuyền nhỏ hẹp, luôn miệng bập thuốc rê. Những ngày qua, tôi cùng anh đốn củi mệt phờ người. Anh chậm rãi:
- Anh nói vậy chứng tỏ anh tin tôi. Tôi cũng nghĩ không thể sống với mấy ông này được nữa, không phải chỉ có làm không có ăn mà tôi thấy mình sống không ra con người. Tôi đồng ý đi với anh. Tôi thấy nhẹ hẳn người, cười nói:
- Lỡ chẳng may thì tù đa.
- Ối mẹ, bây giờ sống như vậy còn quá cha ở tù. Kể từ hôm đó, Tư Nhiễn bắt đầu lao vào âm mưu đào thoát khỏi chế độ Cộng Sản, một âm mưu toan tính thực hiện giữa mạng lưới công an mật vụ dày đặc, một âm mưu mà trước đó cả năm trời chúng tôi đã loay hoay thực hiện vẫn chưa thành.
Chuyện bắt đầu từ tháng Tư năm 1977.
Chiến, một thanh niên quả cảm đã từ Sài Gòn về một làng quê hẻo lánh, làng Phước Hòa nằm cách Vũng Tàu 20 cây số để sống với ý định rõ rệt là mua một chiếc thuyền để vượt biên. Anh đã bước được bước đầu, mua xong một chiếc ghe dài 11 thước, rộng chừng 3 thước với một máy Diesel 20 mã lực. Nhưng một mình anh không đủ lực nên phải đi tìm đồng chí. Không chỉ có một cái thuyền là khơi khơi ra biển. Thuyền chỉ được chứa tối đa 100 lít nhiên liệu, 10 kí thực phẩm và 50 lít nước. Công an kiểm soát thường xuyên. Hễ quá số quy định, nếu nặng thì thuyền có thể bị tịch thu, nhẹ thì không được hành nghề đánh cá ít lâu. Bất cứ ai xuống thuyền cũng bị theo dõi. Du kích lốn nhốn ở bến thuyền xục xạo nhòm ngó. Vô kế khả thi. Mọi người nhìn nhau thở dài trong khi guồng máy nhà nước mỗi ngày một xiết chặt lại. Bất cứ đi đâu cũng phải xin phép. Đến nơi phải trình báo. Ai cũng có thể bị công an gọi ra trụ sở dọa nạt, bắt khai báo.
Mọi người sống dật dờ. Chiếc thuyền ngày ngày đi đánh cá nhưng lỗ khủng khiếp. Một lít dầu giá chính thức chỉ 20 xu nhưng giá chợ đen tại Phước Hòa lên tới 2 đồng. Một chuyến đi lưới tối thiểu cũng mất 60 đồng, trong khi đó nhà nước buộc phải bán cá cho hợp tác xã với giá 60 xu một kí loại nhỏ, một đồng rưỡi loại lớn. Tại chợ, mỗi kí cá loại nhỏ giá 6 đồng, cá lớn hoặc tôm ngon lên tới 12 đồng. Hoặc là cắn răng chịu những sự vô lý, hoặc là bỏ nghề. Nếu bỏ nghề thì phải bán thuyền lại cho nhà nước với giá bằng 1/20 thực giá. Đó có lẽ là cái mục tiêu sau cùng của nhà nước. Và chúng tôi cắn răng chịu vì những mục tiêu khác. Chiếc ghe vốn là gỗ bằng lăng chỉ dày 2 phân rưỡi mong manh nên sau vài tháng hành nghề thì bắt đầu hư nát. Chiến đã phải xin phép đưa thuyền về Sài Gòn sửa chữa sau khi đút lót cho tên Bảy Lọt, trùm công an 500 đồng. Ngay khi có cơ hội như vậy, một sáng kiến được nêu lên. Chúng ta đi từ Sài Gòn. Nhưng chiến dịch đánh tư sản của nhà nước đã khiến ý kiến này không thể thực hiện được. Màng lưới công an mật vụ ùa hết ra đường, gác khắp hang cùng ngõ hẻm. Xe cộ bị chận xét liên miên. Đi từ Phú Nhuận đến chợ Bến Thành có thể bị công an gọi lại hạch hỏi cả chục lần. Làm sao đưa đồ đạc, thực phẩm, nhiên liệu xuống thuyền được? Đành trở lại Phước Hòa... Anh em lại họp bàn tới lui. Điều này vô cùng nguy hiểm vì phần lớn ai cũng mang bản án treo trên đầu.
Nguyễn Hữu Hiệu trình diện công an hằng tuần. Nguyễn Hữu Điển mặc dầu đã 33 tuổi, bỗng được giấy gọi đi khám sức khỏe để nhập ngũ. Anh Tám đang lẩn trốn. Tôi bị công an rình rập, bị sở văn hóa nhắn nhe, bị du kích hăm he đủ điều. Anh Phúc đã kí giấy cam kết nếu tìm cách vượt biên sẽ chịu tử hình. Bằng cũng đang không có sổ hộ khẩu ... Họ chỉ là nhà văn, nhà báo, giáo sư, làm nhà in... nhưng đều bị coi là có đầu óc phản động vì những gì xa xưa. Bản dịch cuốn Docteur Jivago đã khiến Hiệu bị một năm tù. Thiệp làm báo Chính Luận, một tờ báo bị coi là thân Mỹ, là cực hữu, từng đấu khẩu và thách đố phái bộ quân sự Việt Cộng tranh luận công khai. Ngoài ra lại có nhiều liên hệ với "nhóm quá khích" Sóng Thần, và là Tổng Thư Ký Hiệp Hội Phóng Viên Chiến Trường. Cơ quan bảo vệ văn hóa cũng như thành ủy đã nhiều lần nhắn nhe "nên sống cho đàng hoàng". Điển làm cho tờ Sóng Thần, tờ báo Cộng Sản căm thù. Tóm lại những cuộc gặp gỡ có thể đưa anh em vào tù dễ dàng. Thường bao giờ cũng có một tiêu đề vớ vẩn được nêu ra trước. “Hôm nay chúng ta nói về giá cả xe đạp thế nào. Chúng ta thảo luận đi kinh tế mới phải đem theo những gì”. Bất thần công an ập vào lôi mỗi đứa ra một góc yêu cầu thuật lại xem ba người ngồi nói với nhau những gì. Nếu lời khai không phù hợp thì phiền. Kết quả của những cuộc thảo luận đưa đến ý kiến đi qua ngõ Rừng Sát. Phước Hòa nằm trên trục lộ cách Vũng Tàu 20 cây số và giáp ranh Rừng Sát bát ngát cây rừng trong một hệ thống sông ngòi chằng chịt. Nơi đây là chiến khu chống Pháp, rồi Bình Xuyên sử dụng làm căn cứ địa, Cộng Sản dùng làm nơi dưỡng quân. Kinh lạch giăng mắc như lưới nhện. Không quen thuộc, lạc vào Rừng Sát như bước vào bát quái trận của Khổng Minh.
Từ ngày 30/4/1975, Sài Gòn không còn ga đốt. Than cũng không. Nhà nước không cho phép tư nhân xây lò hầm than. Cộng Sản rêu rao mỏ than Hòn Gay lớn vô cùng, đứng hàng đầu thế giới. Than quả bàng sản xuất bừa bứa, cả miền Bắc dùng vẫn còn dư. Đồng bào miền Nam sẽ có than quả bàng, vừa tiện lợi, vừa rẻ, không cần than đước nữa. Cái bánh vẽ than quả bàng vậy mà có thật. Mỗi người dân mua được 4 kí than mỗi tháng, tuy có tháng nhà nước cũng quên. Than trộn rất nhiều đất nên chưa nắm mà đã bể từng đống. Khi đi mua, nhân viên nhà nước đổ thêm nước vào than để dễ nắm, nhưng như vậy số kí lô than thực sự lại giảm đi.
Rừng Sát bỗng trở thành đất sống của một số người. Ghe thuyền từ Sài Gòn túa lên Rừng Sát, mỗi ngày hàng trăm thuyền củi về Sài Gòn. Bất cứ cây gì cũng chặt, mắm, xu, bằng lăng, chà là...
Sau ba năm dưới chế độ, Rừng Sát sơ xác tiêu điều đến nỗi chim không có chỗ đậu, khỉ không có nơi trú. Không thể tìm ra một cây xu, một cây mắm nào lớn hơn bắp chân nữa. Bây giờ người ta đành đi mót, chặt những đoạn gốc cây mà trong 3 năm vừa qua người ta đã phạt phần trên rồi.
Một cách chính thức, nhà nước không cho phép đốn củi để bảo vệ rừng. Lâm sản thuộc về tài sản của chế độ. Ai cũng biết vậy, nhất là du kích. Và khi nào thiếu tiền tiêu vặt, tiền nhậu, họ chỉ việc ra chặn bên bờ sông Lòng Tảo, tịch thu củi lậu về bán là túi lại rủng rẻng. Vì miếng ăn, dân nghèo vốn được chế độ rêu rao là thành phần cốt cán vẫn phải lao đầu xuống Rừng Sát chặt để lâu lâu bị du kích tịch thu củi một lần. Nhiều thảm cảnh đẫm máu đã xẩy ra. Hai bố con đem theo cá mắm, gạo hẩm, nước tương xuống rừng chặt củi nửa tháng, đầy một thuyền. Về đến Tam Tông Hiệp, họ bị du kích chặn lại tịch thu. Ông bố vác rìu phạt đứt đầu du kích toan cướp cơm chim rồi tự tử chết ngay tại chỗ. Đừng tranh đấu lý sự hay năn nỉ với du kích. Một du kích với khẩu AK trên tay nói điều gì là chế độ nói, phán bảo điều gì là Đảng phán bảo. Bất cứ nhân viên công an, bất cứ anh du kích mới 16 tuổi đầu nào cũng có thể đóng vai ông tòa. Chỉ một trưởng đồn công an cũng có thể đưa bạn đi tù chung thân. Họ được nhà nước xưng tụng là đầy tớ của nhân dân, là mũi xung kích của chế độ, là thành trì của Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Họ bị sử dụng tối đa làm việc ngày đêm với số lương không đủ mua 10 kí gạo tự do. Họ phải sống bằng ngoại bổng để có thể phục vụ đắc lực và nhà nước một cách cố ý đã tạo cho họ nhiều cơ hội có ngoại bổng. Dân đi làm củi biết vậy nên có bị lấy củi ngang xương cũng không dám phản ứng gì vì biết mình đi làm củi thế này là thuộc "thành phần ăn bám, không chịu trực tiếp sản xuất" chưa kể tội phá hoại lâm sản, làm hại đến "sức của" của nhân dân. Du kích cũng biết không nên gắt gao quá, chỉ tịch thu đến mức dân vẫn có thể tiếp tục đi làm củi, nghĩa là chừng bốn chuyến thì tịch thu một chuyến. Cũng phải để dân thoi thóp để còn có chỗ làm ăn.
Vậy thì Rừng Sát có thể được lắm chứ!
Tôi quyết định xuống rừng.
Mò mẫm tôi mua được chiếc ghe tam bản cũ nát với giá cắt cổ. Thư sinh mặt trắng như tôi mua ghe làm gì? Công an nhân dân nhan nhản khắp nơi, chỉ cần một chút sơ ý là bị còng liền. Chiếc ghe mua xấp mua ngửa, không thể xử dụng ngay mà phải sửa chữa. Nhờ đó, tôi gặp anh Tư Nhiễn.
Khi sửa ghe, anh vui miệng kể lể. Anh cũng có hai thằng con đang đi đốn củi ở Rừng Sát. Nhà anh có hai chiếc ghe. Tôi băn khoăn. Liệu có thể tin được con người này chăng? Trong một xã hội như xã hội Việt Nam hiện tại, ai cũng có thể là tai mắt chế độ. Đủ thứ đoàn thể, từ Thiếu Niên Quàng Khăn Đỏ đến Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ phụ nữ tiên tiến đến công đoàn, rồi chi bộ Đảng, rồi Cờ Đỏ, đâu đâu nhà nước cũng gài người vào. Ai cũng có thể đưa bạn vào nhà tù, đi cải tạo. Chế độ đã thành công tột đỉnh khi làm cho bạn nhìn đâu cũng thấy có tai mắt của nhà nước, lúc nào cũng có cảm tưởng bị rình mò. Đã có những trường hợp con tố bố để được đặc cách vào Đảng, vợ tố chồng để được đem ra trước đám đông tuyên dương. Nên tin Tư Nhiễn chăng?
Gốc người Tân An, Vĩnh Long, cựu binh sĩ chế độ cũ, anh là người lao động thực sự. Thợ mộc, thợ ghe, chài lưới, làm củi, làm ruộng, cái gì anh cũng làm được hết. Dăm ba cái răng vàng, dáng người thấp đi hơi lạch bạch, chậm nhưng vững vàng, anh ít nói, hay cười và hút thuốc rê liên miên. Vợ sáu con, anh làm không đủ ăn vì không được quyền mua gạo giá chính thức của nhà nước. Giá gạo nhà nước chỉ có 4 hào một kí trong khi chợ đen thì từ 4 đến 6 đồng tức đắt gấp mười lần hơn.
Hai đứa con đầu lòng của anh khám sức khỏe xong chưa biết trình diện lên đường nhập ngũ ngày nào. Âu là cứ thử. Tôi rủ Tư Nhiễn đi làm củi chung với một phần chia hơi quá đáng cho anh ngoài những phí khoản do tôi đài thọ. Anh vui vẻ đồng ý ngay. Sau này anh nói lại với tôi:
- "Không phải vì lợi lộc mà tôi nhận xuống rừng với anh lần đầu. Tôi thấy có cái gì là lạ, nên đi thử xem sao. Nói thật, tôi tưởng anh hoạt động cho Ngụy".
Ngụy có nghĩa là tà, là cái gì có tính cách tiếm đoạt, nhận xằng phi chính nghĩa. Cộng sản tự nhận là mình theo chính đạo và một cách giản dị, họ gọi tất cả những gì thuộc về Việt Nam Cộng Hòa là Ngụy. Ngụy Quân, Ngụy Quyền, Ngụy Dân.
Mới đầu dân Miền Nam khó chịu vì bị coi là Ngụy. Dần dần, sau những đụng chạm với cán bộ cộng sản, với thực chất của chế độ, của Đảng, tất cả nhận chữ Ngụy một cách hãnh diện. Bất cứ điều gì có vẻ hơn người, đáng tự hào… lập tức được phê “Ngụy mà!”. Có kẻ nhận mình là họ Ngụy, chẳng hạn như tôi là Ngụy Văn Thiệp.
Vậy là một buổi trưa tháng Ba, tôi theo Tư Nhiễn xuống rừng. Thấy tôi lò dò xuống chân cầu Rạch Ông, Tư Nhiễn cười hài lòng. Trông tôi chắc cũng bắt mắt. Mũ tai bèo, áo kaki xám bạc màu sờn cổ, vá vai, quần nhớm nhếch. Anh phê bình:
- Phải vài hôm nữa trông anh mới khá được, trắng quá!
Khởi hành từ cầu Rạch Ông, ghe đi tắt Rạch Đìa qua Phú Xuân. Chúng tôi trang bị máy đuôi tôm Kholer 4. Nếu đi một mình bằng máy đuôi tôm phải mất 10 tiếng đồng hồ mới tới nơi làm củi. Tôi nghe những địa danh mới một cách chăm chú:
- Mình đi theo sông Lòng Tảo, tới ngã ba Đồng Tranh, qua tắc Hông, ba Đọi, tắc Cua, Cù lao Ông Tượng, ngã tư Bàn Thạch, sông Ông Trịnh mới đến chỗ làm củi.
Chiều ý tôi, Tư Nhiễn cho neo ghe ở Phú Xuân, mua gạo, nước mắm, cá khô, thuốc rê rồi vào quán cà phê nhâm nhi chờ con nước xuống. Ghe củi lục đục đến mang theo những khuôn mặt đen xạm mỗi lúc một đông. Có những người đàn ông lặng lẽ ngồi ở đầu ghe đăm chiêu nhìn con nước. Có những người đàn bà chân tay nứt nẻ, khoác chiếc áo dầy cộm vá chằng vá đụp, ngồi im lìm trong khoang thuyền như những khúc cây vô hồn. Xẩm tối, thuyền kéo tới. Đó là một chiếc thuyền trang bị động cơ Diesel 20 mã lực. Những chiếc ghe nhỏ cột dính vào nhau thành một chuỗi dài đeo theo thuyền lớn. Phí khoản phải trả từ 3 đến 6 đồng tùy cỡ ghe. Thế là tối hôm đó, tôi nằm khoèo trong khoang, nghe tiếng nước vỗ bì bõm mặc cho thiên hạ kéo đi.
Đốn củi không phải chuyện đùa mà là lao động tối đa, một công việc cực nhọc. Các loại cây nước mặn như xu, đước, mắm đều mọc trên bùn. Khi thủy triều lên, cây chìm dưới nước và khi nước rút, rễ cây lộ hẳn ra như những chiếc vòi bạch tuộc cắm tua tủa xuống bùn.
Chiếc rìu Tư Nhiễn trao cho tôi nặng trĩu. Chúng tôi bì bõm lội. Rễ cây như bàn chông đâm ngược lên trời. Chân tôi buốt thót. Những con còng, con cá bống dương mắt nhìn. Khắp người tôi, đâu cũng bùn. Nước mặn và nắng tháng Ba làm tôi đỏ như con tôm luộc. Tôi bị hàng trăm vết xước, nước muối ngấm vào xót tê dại.
Tôi không dám tỏ vẻ mệt mỏi, dù tay tôi rã ra, chân tôi muốn khụy xuống. Tư Nhiễn lâu lâu nhìn tôi cười:
- Trông ông học trò quá. Liệu đi mần củi được không?
- Anh làm được thì tôi làm được.
Chúng tôi tìm được một cây bằng lăng tàm tạm lớn. Hai đứa hì hục một buổi, đốn, chặt. Những nhát búa của Tư Nhiễn đi thật ngọt, trong khi tôi trật vuột.
Tư Nhiễn đem theo một mảnh lưới nhỏ nên khi nước lửng, chúng tôi xuống lưới. Rừng Sát thật tuyệt. Chỉ một lát sau, chúng tôi bắt được một rổ tôm tép. Tôi muốn bắt nữa nhưng anh nói:
- Của trời đừng phí. Nhiêu đây đủ rồi, còn để cho tôm cá nó sống. Còn những người đến sau nữa!
Câu nói mộc mạc này khiến tôi xúc động và tin tưởng nơi anh hoàn toàn. Không lý một kẻ tôn trọng quyền sống của loài tôm tép lại có thể phản bội anh em dù chỉ là giang hồ chi nghĩa. Tối hôm đó, sau khi cùng anh rít vài hơi thuốc rê đắng nghét, tôi ngỏ ý định thực sự. Anh cũng tâm sự lại với tôi. Hóa ra chúng ta đều giống nhau. Cuối cùng, tôi cũng như anh, chúng ta chỉ muốn được làm người theo nghĩa bình thường nhất. Chắc chắn anh không biết đến tổ chức Liên Hiệp Quốc, đến ông Tổng Thư Ký Waldheim, đến bản tuyên ngôn nhân quyền, đến hội bảo vệ nhân quyền. Hẳn anh cũng không có ý thức rõ rệt thế nào là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do lựa chọn nghề nghiệp. Anh không nghĩ đến những thứ đó, còn với tôi, đó là những thứ xa xỉ giống như bom nguyên tử, bom proton đối với một tiểu nhược quốc. Nhưng anh cũng như tôi, tự trong thâm tâm, chúng ta đòi quyền sống đích thực và chúng ta đã bị từ chối, bị tước đoạt. Một thiểu số được tổ chức chặt chẽ, được võ trang đến tận răng, được nhồi nặn bằng một lý thuyết vô luân, ngược đạo lý để cướp đi đời sống từ tay anh tay tôi, tay 50 triệu người Việt.
Võ khí cuối cùng của những kẻ như anh, như tôi là sự từ chối. Bản Hiến Chương LHQ, Hiến Pháp của các quốc gia đã thiếu sót khi không ghi vào đó quyền từ chối tham dự của cá nhân. Vậy thì mình bỏ đi, phải không anh!
Chuẩn bị
Mục tiêu gần nhất là Singapore, cách Vũng Tàu 600 hải lý. Như vậy, chúng tôi cần tối thiểu 600 lít dầu, vì theo ước tính, tốc độ thuyền của chúng tôi là 6 hải lý/giờ – cách đo tốc độ thuyền do tôi học mót được của một vị thuyền trưởng: Ném một vật nào vào mũi ghe, xem khi vật đó tới mũi thuyền mất mấy giây. Lấy 10 chia cho số giây sẽ ra tốc độ tính theo hải lý. Sau nhiều lần làm đi làm lại, Chiến cho hay vận tốc là 6 hải lý.
Thực tình mà nói phương tiện chúng tôi quá eo hẹp. Một hải bàn cũ nhất cũng phải mua tới 3.000 đồng và khó mà tìm ra. Tôi xục xạo khắp nơi chỉ mua được một chiếc địa bàn quân đội và một chiếc không bàn gắn trên trực thăng.
Sài Gòn đang lịm chết, thật khó tìm ra bất cứ thứ gì. Tôi đã mất một ngày trời mới mua được 2 kí đinh cho Tư Nhiễn với giá đắt gấp 10 lần giá bình thường. Một tấm ván cũng không có và tôi đã gỡ ván sàn nhà để có gỗ chữa những chiếc ghe nhỏ. Đi tới đâu cũng thấy những khuôn mặt sầu thảm và những cái lắc đầu lia lịa. Nhà nước đã kiểm kê, đã niêm phong, không mua không bán gì nữa cả. Không ai dại gì mà bán cho bạn vì có quá nhiều lý do để nghĩ rằng bạn chẳng qua chỉ là một viên công an nhân dân
đến thử và sẵn sàng tịch thu toàn bộ tài sản của họ, lôi họ ra trụ sở công an rồi đi trại cải tạo. Không ai tin ai nữa.
600 lít dầu trong hoàn cảnh như vậy quả là một vấn đề lớn. Ngay tại bến Phước Hòa, trên thuyền chỉ được giữ 100 lít. Sau những so đo suy tính, Chiến cho hay sẽ tìm mọi cách giấu giếm để có thể có 200 lít trên thuyền vào hôm khởi hành. Như vậy tôi sẽ phải xoay sở 400 lít. Trên thị trường chợ đen, tôi vẫn có thể mua giá gấp 5, 6 lần giá chính thức do bọn cán bộ ăn cắp của công đem bán. Khó khăn là chuyển dầu xuống ghe. Chỉ cần xách 10 lít đi đường đã bị chận hỏi. Ba ngày trước khi đi, kế hoạch của chúng tôi suýt vỡ tung vì dầu.
Với hai chiếc xe Honda, 4 người chúng tôi chở 80 lít dầu từ Sài Gòn sang vùng Rạch Ông để chuyển xuống ghe tam bản với Tư Nhiễn đang chờ. Đây là hành động liều lĩnh nhưng không còn giải pháp nào khác. Tôi đi trước chở Nguyễn Phúc. Anh Nguyễn Tiến Hoài đi sau chở vợ Chiến, chị Nhung. Chúng tôi đi lọt gần hết các trạm gác nhờ lúc chạng vạng tối, lúc đường phố tấp nập nhất, cho đến trạm chót cách ghe độ một cây số.
Tôi vừa thoát qua thì nghe tiếng tu huýt ré lên. Tôi rú hết ga chạy luôn. Hoài đi sau lóng ngóng như anh thuật lại về sau, đành bình tĩnh chạy từ từ như không nghe còi. Độ hai phút sau anh bị xe công an rượt bắt kịp ép vào lề. Anh Phúc ngồi phía sau tôi nói khẽ "Hoài bị rồi". Tôi không trả lời, phóng tới, chuyển gấp hai thùng dầu và đẩy Phúc xuống ghe. Tư Nhiễn ngoáy chèo và sau một lát, chiếc ghe nhỏ lênh đênh giữa sông.
Anh Hoài và chị Nhung bị đưa về trụ sở công an phường. Cả hai đã bàn tính trước, một mực họ khai đi buôn lậu dầu lần đầu tiên. Họ bị hạch hỏi liên miên suốt 4 tiếng. Tôi lòng như lửa đốt, lẩn quẩn bên quán nước cạnh đường. Nếu có gì xảy đến, chúng tôi sẽ phải xử ra sao? Hi sinh họ chăng? Tạm hoãn? Nhưng họ được thả về, chỉ mất hai thùng dầu. Công an không làm biên bản và chắc chắn hai thùng dầu đó sẽ được đem bán chợ đen lấy tiền ăn nhậu. Tham nhũng dưới mọi hình thức được ngầm chấp thuận trong chế độ. Có vậy thì cán bộ đảng viên mới có thể sống để phục vụ.
Công việc sửa soạn mỗi lúc một gây cấn.
Giữa lúc đó một nhân vật nữa xuất hiện: Ông Nguyễn Văn Thông.
Ông Thông xưa là chủ một nhà in lớn, nơi tờ báo tôi làm việc in thuê. Dạo đó chúng tôi gặp gỡ hằng ngày, chào hỏi nhau, nói vài câu xã giao cần thiết. Hôm đó tôi đang tính toán trả tiền sửa ghe trong ụ thì ông Thông đến. Có lẽ vì nhạy cảm, có lẽ nhìn thấy tôi đen xạm, lôi thôi lếch thếch, ông Thông đoán mò. Ông kéo tôi đến cạnh bờ sông, nói nhỏ "cho tôi theo với".
Tôi trợn tròn mắt nhìn. Ông nói khẽ, rất nhanh, nhưng rõ ràng:
- Tôi nói thẳng để ông khỏi lo. Ông biết tôi từ lâu rồi. Máy móc nhà in của tôi bị tịch thâu sạch. Tôi tính chuồn nên đã sắm được chiếc ghe một bloc. Nếu ông đi, ông cho tôi theo bằng ghe của tôi. Lại thêm một người không muốn sống đời thú vật. Tôi dọ dẫm:
- Ghe một bloc làm sao đi?
Ông Thông dứt khoát trả lời:
- Máy tôi mạnh 12 mã lực hiệu Yue Long. Ghe tôi dài 8 thước, rộng hai thước, trước là ghe chở hàng trên sông mới sửa thành ghe đánh cá. Tôi biết rằng đi với một chiếc ghe như vậy chín chết một sống. Nhưng thà ra giữa biển chết mát hơn.
Một người cha có trách nhiệm toan tính đem con cái mình gần 10 đứa, đứa nhỏ nhất chưa đầy 4 tuổi, vượt 1.300 cây số đường biển bằng chiếc ghe dài 8 thước, dù ông ta không thông thạo ghe tàu và biết rõ mọi sự nguy hiểm. Đó là sự thực. Người cha không muốn con cái mình trưởng thành trong sự giáo dục để chỉ còn biết nghi ngờ, do thám, báo cáo và bạo lực nên sẵn sàng lôi con mình vào cõi chết để thấy con mình vẫn là con mình, vẫn là người ăn ngay nói thẳng, sống đời chân thật.
Ông Thông đã bỏ lại tài sản do công lao đổ mồ hôi tom góp sau bao năm làm lụng, nhưng thật ra ông may mắn hơn đa số người cùng đi đã phải bỏ lại cha mẹ, vợ con, anh em.
Gia đình ông Thông được chấp nhận nhập cuộc vì với chiếc ghe 8 thước, việc chuyên chở dầu, người, thực phẩm, xuống rừng dễ dàng hơn. Ngoài ra, gia đình có Thái, Chánh là những thanh niên xốc vác, am hiểu sông nước, đường đi lối lại khu vực Rừng Sát, nơi họ đánh cá từ nhiều tháng nay. Cả hai đều là sĩ quan cấp úy quân lực VNCH.
Ngoài nhiên liệu cho máy còn lương thực cho người. Tôi trù tính đem theo 100 kí gạo, một thùng mì bóp vụn, một thùng bánh mì khô, kẹo, đường và sữa bột cho trẻ nhỏ. Kiếm ra những thứ này là chuyện vất vả, chuyển được xuống rừng còn ngàn vạn khó khăn hơn. Dù vậy, mọi việc hình thành mỗi lúc một rõ ràng.
Tôi nắm trong trong tay một tiểu hạm đội gồm ghe lớn một bloc của ông Thông có bến hợp pháp tại Phú Xuân, hai ghe của Tư Nhiễn, cũng hợp pháp nhờ có đăng kí và 3 ghe lậu trong đó có một ghe máy dầu 5 mã lực mà theo thói quen vẫn gọi là ghe F-4, hai ghe nhỏ có trang bị máy Kholer. Kể thì khá hùng hậu những cũng quá nhiều nguy hiểm. Tư Nhiễn nhăn nhó với tôi:
- Làm sao chứ chết cả đám. Một mình tôi làm gì mà có tới 5 chiếc ghe. Công an phường đã gọi tôi lên hỏi, tôi khai ghe người ta mang sửa. Lối xóm nhòm ngó dữ rồi đó.
Tôi cũng như cuồng. Số dầu mua góp từng 10 lít chưa đủ. Anh Bé, người sẽ là thuyền trưởng của chúng tôi hiện còn kẹt tại công trường lao động chưa về được.
Sau hai ly cà phê đậm đặc, tôi chợt lóe lên một ý nghĩ
- "hay là mình thả nổi".
Tư Nhiễn ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi phì cười vì lối nói nhà báo, giải thích:
- Liệu anh và hai đứa nhỏ có thể đem ghe ra khỏi bến rồi lang thang trên sông được một tuần chăng. Anh đậu mỗi nơi một buổi chắc không sao. Tư Nhiễn gục gặc:
- Một tuần thì may ra được, quá nữa thì khó đa. Tôi không bảo đảm đâu.
Thế là nay đây mai đó, ba cha con anh đem đoàn ghe 5 chiếc phiêu bạt khắp vùng Tân Thuận, Cầu Hàng Rạch Đía, Phú Xuân Phú Khánh. Chúng tôi chơi trò gián điệp. Hẹn nhau vào một giờ nhất định ở một địa điểm nào đó. Nếu vì trở ngại gì, 15 phút sau giờ hẹn không có mặt thì một giờ sau sẽ gặp ở địa điểm thứ nhì và nếu vẫn không đến được thì kể như bị tóm. Cứ thế. Tư Nhiễn dưới sông, tôi chạy gắn máy trên bờ. Sống trong nanh vuốt cộng sản, không cẩn thận không được. Có lần tôi đã thoát nhờ có chuẩn bị.
Trong một lần đi dọ thám địa điểm dấu nhiên liệu, tôi bị công an biên phòng chận hỏi. Họ đòi xét giấy tờ. Tôi và Liễn con anh Tư Nhiễn khai đi làm củi không đem theo giấy tờ sợ mất. Họ hỏi đồ nghề đốn củi, tôi lôi ra hai chiếu rìu cán sắt, một chiếc rựa. Họ nhìn khuôn mặt thảm hại của hai đứa tôi rồi vẫy tay cho phép đi. Mỗi lần đi xuống rừng tôi cũng mua ít củi về ra vẻ ta đi làm ăn thực sự. Về đến Sài Gòn bán lại đủ vốn. Chính vì vậy, mặc dầu mọi người đều là anh em cả, nhưng tôi không cho họ biết gì nhiều. Chỉ có tôi và Chiến là biết hết tên tuổi và nhà cửa của mọi người. Có hai người rất thân nhau nhưng chỉ khi lên đến thuyền họ mới biết cùng đi trong một tổ chức.
Chiến từ Phước Hòa về cho hay mọi sự êm đẹp và có thể khởi sự như dự tính. Ngày đi được ấn định là 7-5-78.
Tôi chọn sáu thanh niên khỏe mạnh cho xuống rừng trước vào hôm lễ Lao Động 1-5 và sau ngày oan trái 30-4-78 một ngày là ngày đoạn tang chế độ. Tôi nhớ Hoàng Hải Thủy, một văn sĩ tên tuổi đã bị nhà nước bỏ tù vì có tư tưởng phản động cách đây ba tháng. Trong một bài thơ anh làm, có câu:
Năm năm cứ đến ngày oan trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Bây giờ anh đang bị biệt giam trong xà lim không được tiếp xúc với vợ con. Liệu anh có cơ hội để lắng lòng mình xuống, nhớ thương cho những gì đã mất đi? Tôi, người em trẻ hơn anh đúng một giáp đã được anh khuyên:
- Nếu đi được, đi đi, rồi sống cho ra con người. Tôi đang cố làm như anh nói.
Và đúng 5 giờ chiều ngày 1-5, sáu thanh niên thuộc phe ta có mặt rải rác trong quán cóc quanh chợ Phú Xuân.
Đúng 6 giờ, như một bóng ma, Tư Nhiễn đầu đội nón mê, áo xanh thẫm, quần xà lỏn, chân đất, từ đâu nhô tới. Tôi bình tĩnh trả tiền ly nước chanh rồi đi ra song song bên cạnh anh. Anh nói khẽ:
- Không xuống bên kho, có ghe du kích, phải xuống mé chân cầu…
Tôi bảo anh:
- Cũng được. Đợt đầu 3 đứa đi với anh xuống trước. Anh bảo Cang lên đón tôi đợt hai. Tôi chờ ở đây nghe. Tư Nhiễn gật đầu quay đi. Nhìn thấy tôi ra hiệu, ba thanh niên băng đường nhựa theo anh. Hai phút sau, họ mất hút dưới hầm cầu. Tôi cẩn thận đi ngược lên trên cầu theo dõi. Con thuyền nhỏ bắt đầu xoay. Tư Nhiễn đứng mũi, phía sau. Điển chỉ còn mặc quần xà lỏn cũng cố chèo. Vốn là một tay chụp ảnh lành nghề, Điển đã xung phong đi chuyến đầu và đã thích hợp với hoàn cảnh thật mau. Cũng áo rách bạc màu, cũng nhún lên nhún xuống ngoay ngoáy mái chèo như ai.
Tôi an tâm quay xuống chỗ cũ. Từ Phú Xuân về đến trung tâm Sài Gòn có xe đò nhưng chỉ đến 6 giờ là hết. Tôi chờ Cang đến 6 giờ 30 lòng nôn nao. Ba người kia không hay biết gì, gọi thêm một hai chén chè đậu xanh ở các quán bên cạnh. Trời tối dần, 7 giờ vẫn chưa thấy. 8 giờ 30 vẫn thấy biệt tăm Cang. Chuyện gì xẩy ra đây? Bị công an bắt? Vô lý, vì với cảnh ghe củi tấp nập như vậy, công an không thể nào phát giác ra đám người của tôi. Tại sao Cang không lên đón tôi. Tôi liều lĩnh sục sạo trong đám ghe lô nhô trên mặt nước đêm. Không thấy dạng cha con Tư Nhiễn. Trời vừa sập xuống nhưng đã tối thui vì cuối tháng âm lịch. Tôi như nổi điên, người nóng bừng bừng, sao lại có thể như thế. Chuyện gì? Tôi bất chấp an ninh đứng trên một tấm ván bắc nhô ra ngoài gọi vang "Anh Nhiễn ơi, Cang ơi!" Dăm ba chiếc đầu nhô ra từ các khoang thuyền gần đó ngó lên, không một lời đáp. Mặt sóng vẫn lao xao thuyền bè nhưng đoàn thuyền của tôi biến mất không tăm tích. Tôi coi đồng hồ, 8 giờ 30. Đành vậy.
Tôi quay lại chợ Phú Xuân ra lệnh cho ba người đang chờ đi về. Họ ngơ ngác. Tôi nói nhỏ:
- Cứ yên chí, sẽ giải quyết sau, bây giờ về.
- Nhưng hết xe đò rồi.
- Thì đi bộ. Tôi để hai người đi trước. Khuất bóng họ, tôi và người nữa cất bước. Chân tôi nặng như chì, đầu tôi váng, mắt tôi hoa, nhưng tôi vẫn cố tỏ ra bình tĩnh để những người khác đừng lo sợ.
Theo như dự trù, 5 chiếc ghe sẽ chở 7 đứa vuợt ngã ba sông Nhà Bè qua tắc Ông Mai, nơi đó có ghe của Chánh, Thái chờ sẵn với hai người khác. Ghe này sẽ kéo 5 ghe nhỏ như bất cứ đoàn ghe nào khác xuôi xuống rừng làm củi. Tư Nhiễn chưa gặp Thái. Thái cũng chưa biết Tư Nhiễn. Họ đều trông chờ tôi trong khi tôi lết bộ trên đường. Rồi đây chuyện sẽ ra sao? Tôi bước thấp bước cao, lòng rối như tơ vò. Trời hại ta chăng?
Hôm nay là ngày Lễ Lao Động nên thỉnh thoảng chúng tôi lại đi qua một đám người đang phải thưởng thức văn nghệ quần chúng ở những sân khấu lộ thiên bên cạnh đường. Dù không muốn nghe, nhưng những tiếng hát the thé vẫn rú lên lọt vào tại tôi
"...Việt Nam, Hồ Chí Minh..." làm như hai chữ đó biểu dương cùng một hình ảnh. Ông Hồ đang được thánh hóa bằng mọi giá. Trẻ con thì "đêm qua em mơ gặp Bác Hồ... Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng".
Ở báo chí thì trên trang nhất luôn phải có hình ông ta, lúc ôm nữ anh hùng chống Mỹ, lúc nựng anh hùng lao động, khi đi guốc mộc tưới cây vú sữa, khi cầm gậy điều khiển dàn nhạc đại hòa tấu … Lời ông ta nói là thánh kinh đóng khung khắp nơi, kể cả những lời ông ta nhại lại của cổ nhân, ăn cắp của sách xưa… Chướng tới nỗi một người dân nào đó của thành phố phải phát biểu:
- Một ngày không thấy hình Bác, không đọc lời Bác thì ăn không ngon, ngủ không yên, đi cầu không ra, nói năng vô duyên, soi gương thấy mặt mũi đáng ghét.
Tôi bật cười vì chuyện đám trẻ nhỏ miền Nam so sánh ông Hồ với thần tượng của chúng khi thấy ông múa gậy điều khiển dàn nhạc. “Thấy Bác Hồ như Tề Thiên Đại Thánh cầm thiết côn mà múa máy tưng bừng.” Dù được gọi là Tề Thiên, được tôn là Đại Thánh thì thực chất vẫn chỉ là một con khỉ.
Rồi chúng tôi cũng vượt 13 cây số về tới ranh Sài Gòn lúc 11 giờ đêm. Mặc dầu nhân ngày lễ lớn, lệnh giới nghiêm được bãi bỏ, nhưng phố xá vắng tanh không hàng quán, không kẻ đi người lại. Sài Gòn của tôi đang bị chết trong nôi chế độ.
Suốt ngày hôm sau, tôi chạy đôn chạy đáo, lùng kiếm Tư Nhiễn và đoàn ghe cho tới xẩm tối mới chộp được anh. Tôi đã thảm, trông anh còn thảm hơn. Mắt anh lờ đờ, mặt vàng, gò má nhô lên. Chỉ sau 24 tiếng, anh như sút hẳn đi. Câu chuyện dần dần sáng tỏ.
Tinh thần anh căng thẳng đến nỗi anh dẫn ba người xuống rồi băng luôn qua ngã ba Nhà Bè đến tắc Ông Mai. Neo ghe xong xuôi mới nhớ phải đón thêm một toán nữa. Anh và Cang trở lại Phú Xuân thì đã trễ. Biết làm sao hơn? Ai cũng sợ hãi cả, đâu chỉ mình anh. Tôi cố trấn an anh, yêu cầu ba người kia tạm trở về và thông báo cho Chiến hay có trục trặc.
Đúng lúc đó, nhà nước hạ đòn chí tử, đánh vào quảng đại quần chúng: Đổi tiền! Mỗi người đổi được 50 đồng. Một gia đình không được đổi quá 500 đồng. Ai có quá số qui định phải gửi vào ngân hàng nhà nước. Dân thì ai cũng biết tiền gửi ngân hàng nhà nước kể như mất toi. Họ đã có kinh nghiệm một lần rồi. Muốn rút tiền ở ngân hàng phải làm đơn nêu rõ lý do rồi chờ nhà nước cứu xét. Có người xin rút tiền để làm tang bố nhưng hết giỗ đầu mới được cán bộ gọi tới dậy rằng không nên phí phạm vào chuyện ma chay, chỉ nên dùng tiền để sản xuất. Tất nhiên không có chuyện lãnh tiền. Chuyện vô lý đó đã xẩy ra ở Việt Nam như bất cứ chuyện vô lý nào khác, vô lý đến độ không tin được nhưng vẫn xẩy ra. Vì đổi tiền, lệnh giới nghiêm được áp dụng suốt ngày 3-5-78.
Tôi chán nản. Hết cách rồi chăng? Tối hôm đó, Chiến đột ngột từ Phước Hòa về. Hai đứa nhìn nhau. Không lẽ đã thua, bỏ cuộc? Đâu được. Tôi và Chiến quyết định bạo. Đi ngay tại Sài Gòn, không chần chờ.
Cuộc họp được triệu tập sáng 4-5, có cả Tư Nhiễn, Thái, Chánh để tiện bề phối hợp. Kế hoạch thành hình chớp nhoáng và đầy mạo hiểm. Sẽ đi từng đoàn nhỏ, hai tới bốn người, xuống ghe ngay tại Sài Gòn.
Bốn người đầu tiên đi hụt nay xung phong. Tôi, Thái, Chánh, Điển liều mình vác ghe chở dầu chuyển xuống các ghe tam bản đậu ở Cầu Hàng. Nội ngày đầu, 300 lít đi trót lọt. Hú vía, thế là xong chuyến đầu và đoàn ghe đổ người chôn dầu ở chỗ chỉ định xong trở về ngày 6-5. Họ để lại một chiếc ghe với đứa con lớn của anh Tư Nhiễn. Đợt nhì bắt đầu liền lập tức. Xẩm tối 6-5 chỉ một mình anh Nguyễn Phúc được bốc đi khi anh Hoài, chị Nhung bị bắt. Biến cố này khiến tôi không dám ngông nghênh nữa, tạm hoãn chở dầu.
Rạng sáng 7-5, bốn người nữa xuống ghe để gặp và cùng đi rừng với anh Phúc. Họ sẽ gặp chiếc ghe lớn của ông Thông ở bên kia vàm Phú Xuân. Non nửa số người đã thực sự xa gia đình, dấn thân vào cuộc phiêu lưu. Tôi đã nhìn họ lo lắng bước xuống ghe. Tôi cầu nguyện.
Khi mà niềm tin bị võ lực toan tận diệt thì nó bùng lên mãnh liệt. Tôi sinh ra trong một gia đình đạo Phật nhưng chưa bao giờ đi chùa và luôn nhìn sư sãi bằng nửa con mắt. Nhưng lần này tôi cầu nguyện bằng tất cả tấm lòng thành. Tôi không cầu nguyện cho tôi. Tôi mong mỏi an bình cho anh em tôi.
Trong số những tiều phu bất đắc dĩ đó có hai cô con gái ông Thông. Họ là sinh viên nhưng quyết định bỏ ngang khi bị gọi đi học bổ túc chính trị. Một người có đầu óc bình thường biết ăn biết ngủ, biết thế nào là phải trái sẽ phải điên khi nghe những bài giảng chính trị của cán bộ nhà nước. Mọi thứ bị xuyên tạc đến tận cùng. Lịch sử bị bóp méo, tôn giáo bị bôi nhọ, triết lý bị bẻ cong để chung qui đi tới một kết luận: “Chúng ta phải phục vụ chế độ không suy nghĩ, không điều kiện. Chúng ta phải cúi đầu xuống mà lao động không cần lý luận vì mọi suy nghĩ đã có đảng lo liệu”. Khi người ta dạy toán cho trẻ nhỏ bằng cách cộng xác chết thì người ta phải coi cây súng là tất cả. “Một chiến sĩ buổi sáng diệt 8 tên ngụy, buổi chiều bắn 6 tên khác. Hỏi tổng cộng có bao nhiêu ngụy nhào?”
(Còn tiếp)