CHƯƠNG 2
Cuộc Sống Thanh Bình Nơi Đồng Bằng Sông
Cửu Long
Êm đềm và thơ mộng
Ngôi làng nhỏ bên bờ sông Cửu Long!
Dưới khía cạnh nào đó, con người là tổng hợp của các kinh nghiệm mình đã trải qua trong cuộc đời. Riêng với tôi, những biến cố sóng gió nhứt của lịch sử nước nhà tôi từng chứng kiến đã là động lực chính nhồi nặn tôi thành con người như ngày hôm nay. Tuy nhiên, cần phải xác định thêm là tuổi trẻ an bình và vui tươi của tôi tại Đồng Bằng Sông Cửu Long cũng đã để lại nơi tôi nhiều dấu ấn tốt. Trong chương này, tôi nhắc lại những sinh hoạt của tôi trong buổi thiếu thời để cùng các bạn có một khái niệm về cuộc sống ở vùng đất nầy trong những thập niên 1930-1940.
Ôi cuộc sống tại Đồng Bằng Sông Cửu Long thanh bình làm sao!
Để hiểu rõ bản chất dân tộc mình và cách sinh sống của cư dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi xin mượn đoạn kết của Léonard Aurousseau, giáo sư Trường Viễn Đông Bác Cổ trong bài nghiên cứu về tiến trình cuộc di dân vĩ đại của người Việt từ sông Dương Tử đến Vịnh Xiêm La :
«Những yếu tố, những sức mạnh có thể tiêu diệt được một nước mới thành lập đều vô hiệu trước sức sống mãnh liệt của người Việt.
Dân tộc Việt chiếm các đồng bằng Bắc Việt ngay từ cuối thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Xã hội Việt Nam trở nên thịnh vượng tại đây. Lần lần các làn song di dân tiếp tục tràn lan mãi xuống phía Nam để tới một địa điểm xa nhất trên đường bành trướng mà người Bách Việt khởi từ thế kỷ IV trước Công Nguyên. Người Việt tới Trung Việt ngay cuối thế kỷ sau, ở đây dân tộc Chiêm Thành chận họ lại một thời gian khá lâu. Nhưng người Việt vẫn giữ được một cái đà bành trướng như một sức mạnh âm ỉ và sau nhiều năm chinh chiến, họ đã thắng được đối phương Chiêm tộc vào năm 1471 để tiến mãi về phía Nam, tới Qui Nhơn vào cuối thế kỷ XV, tời Sông Cầu 1611, Phan Rang 1653, Phan Thiết 1697, tới Saigon 1698, tới Hà Tiên 1714. Cuối cùng trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt đã hoàn thành cuộc bành trướng của dân tộc và chiếm trọn đất Nam Kỳ hiện thời. » (Nam Tiến VN/Nguyễn Đăng Thục trong Dòng Sử Việt, số 17 (2005) tr.70 in lại từ Tập San Sử Địa, số 19-20, (1970).
Trong công cuộc Nam Tiến, cuộc đấu tranh giữa Việt Nam với Chiêm Thành thật lâu dài và gay gắt hơn cả. Nước nầy xưa kia tên là Lâm Ấp,
đến thế kỷ thứ IX, thì đổi tên là Chiêm Thành. là vùng duyên hải miền Trung Việt Nam bây giờ. Chiêm Thành thường mang quân đánh phá người Việt, nhưng mỗi lần thua trận, hay cầu hôn, Chiêm Thành phải cắt đất dâng cho triều đình Việt Nam (như trường hợp Chế Mân phải dâng Châu Ô, Châu Lý , tức vùng Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay) để xin cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1697, chúa Nguyễn lấy đất Phan Rí, Phan Rang lập thành phủ Bình Thuận, từ đó nước Chiêm Thành biến mất.
Đối với Cao Miên, công cuộc Nam Tiến dễ dàng hơn vì nội chiến làm vương quốc Chân Lạp suy yếu, thường bị Xiêm (đến 1939 mới đổi là Thái Lan) đánh chiếm đấtnên vua Chân Lạp chạy sang cầu cứu Việt Nam và cắt đất dâng cho Việt Nam. Tưởng cũng nên biết là Cao Miên được thành lập vào thế kỷ thứ VI khi vương quốc Phù Nam tan rả (bao gồm vùng đất bao la trải dài từ lưu vực sông Cửu Long đến s ông Ménam, xuống tận càc hải đảo Mã Lai). Từ thế kỷ thứ 9, nền văn hóa Khờ Me lẫy lừng thế giới với các công trình Angklor, chế ngự vùng Đông Nam Á
Cuộc di dân người Việt từ miền Thuận Quảng vào miền Nam bắt đầu từ năm 1620 khi vua Miên là Chei Chetta II cầu hôn với Công Chúa Ngọc Vạn, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Chúa Nguyễn lợi dụng cơ hội nầy đưa quân lên Chân Lạp để mang về những tiếp liệu cần thiết (trâu bò, voi, lúa gạo) và đưa người Việt vào lập nghiệp tại miền lưu vực sông Cửu Long, trên danh nghĩa là đất của Miên, nhưng thực tế xem như vô chủ bởi lẽ từ nhiều thế kỷ, vì sự suy yếu nội bộ, vì chiến tranh liên miên với Xiêm, vùng đất nầy hoàn toàn hoang vu không có guồng máy cai trị của Chân Lạp.
Sau những đợt di dân tự nguyện và cưỡng bách của người Việt, vào năm 1679có 3000 binh sĩ người Trung Hoa (người Minh, chống đối nhà Mãn Thanh), di cư sang Việt Nam. Chúa Nguyễn cho đi khai khẩn đất ở vùng cù lao Phố (Biên Hòa) và Cao Lãnh. Sau đó, năm 1681 Mạc Cữu cũng người Minh đến vùng Hà Tiên.
Như vậy, sự thành lập miền Nam là do sự cộng cư của người Việt từ vùng Thuận Quảng di cư vào Nam lập nghiệp cùng với người Trung Hoa (đa số là người Triều châu) và người bản địa là dân Mélanésien, Polynésien của vương quốc Phù Nam cũ.
Cuộc Nam Tiến của người Việt Nam có thể được so sánh với cuộc Tây Tiến của người Mỹ đi sang miền bờ biển Thái Bình Dương.
Đối với người Mỹ, câu «Go West, young man» (Các bạn trẻ, hãy đi về miền Tây” được coi là lời kêu gọi dân Mỹ di dân về miền Tây của nước họ với ước mong kiếm được những vùng đất màu mỡ để lập nghiệp và thoát ly nếp sống cực nhọc và nghèo khổ hiện tại của mình. Ngoài ra, cuộc di cư nầy biểu tỏ bản chất đặc thù của người Mỹ là óc phiêu lưu, tìm tòi vĩ đại, quyền thế. Tương tự như vậy, một trong những động lực chánh của cuộc Nam Tiến là những vụ nước lụt thường xuyên và bất trị do sông Hồng ở miền Bắc gây ra. Ngoài ra, những cuộc tranh chấp và bất ổn chánh trị trong nước cũng thúc đẩy người dân đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn tại miền Nam. Cuộc Nam Tiến cũng chứng tỏ bản chất hào hùng, không bị đồng hóa khi gặp một văn hóa mới và đặc biệt đã tạo cho người dân Việt một ý chí kiên cường, chấp nhận gian khổ đi tìm đất mới khi bị áp bức như hai cuộc di cư 1954 và 1975.
Ròng rã suốt gần 700 năm, lãnh thổ nước Việt đả mở rộng thêm gấp ba lần tính từ địa bàn trung tâm Đồng Bằng Sông Hồng cho tới biên cương ngày hôm nay.
Cuộc di dân tuần tự xuống miền Nam đưa tới việc hòa hợp giữa các nền văn hóa, chủng tộc và nhân sinh quan. Điều này cũng đem lại sự biến đổi trong lối nhìn và sắc thái của người dân miền Nam. Một cách tổng quát, người Nam cởi mở, thoải mái và phóng khoáng hơn dân miền Bắc. Nói cho cùng, khi vào Nam, người ta phải đón nhận cách suy nghĩ cũng như phong tục mới để có thể hòa mình với dân bản xứ. Ngược lại, qua ngàn năm Bắc thuộc, người Bắc đã phải tranh đấu để bảo tồn lối suy tư của mình. Họ quen che giấu cảm nghĩ của mình để có thể sống còn. Do đó họ trở nên kín đáo và hướng nội hơn.
Cũng như đa số trường hợp các nền văn hóa pha giống, tư tưởng và ưu điểm của mỗi dân tộc ở miền Nam đuợc pha trộn với nhau để đem lại lợi ích chung cho mọi người. Thí dụ người Tiều châu, nổi tiếng về tài canh nông, đã dùng khả năng chuyên môn này của mình để giúp sản xuất một số lượng thực phẩm dồi dào tại vùng đất đai phì nhiêu của đồng bằng. Nhờ vậy dân miền Nam hưởng được một cuộc sống sung túc hơn so với đồng hương của mình ở miền Bắc và Trung. Đó chính là lý do cuộc sống tại miền Nam được an bình và nhàn hạ.
Cuộc sống lúc đó và ở đó thật đơn giản. Nếp sống ở thành thị êm đềm – có khi còn hơn cả nơi đồng quê nữa. Người ta có thể lái xe hơi hay đi xe lửa từ Sài gòn tới Mỹ tho, cửa ngõ của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Từ đó dùng ghe di chuyển trên vô số sông rạch đến thăm các vườn trái cây nhiệt đới, ngắm nhà nông dân xây trên các cù lao hay chiêm ngưỡng những cánh đồng bát ngát, thẳng cánh cò bay. Cũng như mọi người sanh ra tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi được nuôi nấng sát bên bờ sông nước. Căn nhà tôi lớn lên nằm trong làng Tân-Thạch (Rạch Miểu) ngăn cách với thị xã Mỹ tho bởi dòng sông Cửu Long có chiều rộng khoảng gần hai cây số hay một dặm Anh. Ba tôi cho xây một căn nhà chiều dài 20 thước và chiều ngang 10 thước ngay cạnh bến đò. Nơi đây cũng là nhà máy xay lúa gạo Khương-Hữu. Như nhiều nhà trong vùng, căn nhà của chúng tôi được xây một nửa trên đất liền, một nửa trên mặt nước được chống đỡ bởi các cột bê tông. Mái nhà lợp lá dừa nước, giống như mái tranh, nhờ vậy căn nhà được mát quanh năm.
Vào thời đó, không ai bị căng thẳng tinh thần cả. Không ai thấy phải vội vàng, hấp tấp. Với những chiếc xuồng nhỏ lờ lững trôi trên dòng sông chẳng ai biết giờ cao điểm là gì. Dân chúng không tiếp cận và bị thu hút bởi hàng hóa tiêu dùng bởi lẽ các nhu cầu căn bản như cơm ăn, áo mặc và nhà ở đã được đất đai trù phú và khí hậu ôn hòa quanh năm nơi đồng bằng lo toan. Khác hẳn với các thành phố lớn bên Mỹ mà sau này tôi tới sinh sống, Đồng Bằng Sông Cửu Long hoàn toàn không có ô nhiễm về tiếng động, bụi và khói xe.
Để băng qua hằng hà sa số những dòng nước trong vùng, người ta bắc những cây cầu khỉ gập ghềnh mà chẳng phải tiêu pha chi thêm ngoài những thân tre mọc khắp nơi trong làng. Có thể khi chọn cái tên “cầu khỉ” người dân suy đoán là để băng qua cầu một cách dễ dàng, ai nấy đều cần nhanh nhẹn như khỉ cả. Có nhiều cây cầu còn không có thành nữa.
Mặc dầu được coi là vùng nông thôn, Đồng Bằng Sông Cửu Long là một trong những nơi có tỷ lệ dân số trù phú và diện tích trồng trọt cao nhứt nước. Ngoài lúa, nơi đây còn sản xuất nhiều dừa, mía, trái cây nhiệt đới, bông hoa và tôm cá.
Nơi nào cũng thấy có chợ nổi. Chợ nổi gắn liền với đời sống hàng ngày và với văn minh miệt vườn. Những buổi họp chợ luôn luôn nhộn nhịp, náo nhiệt, và đông đúc cho ta cảm tưởng như đang thấy trước mắt một thành phố nổi. Ở nơi này, đủ thứ hàng hóa được mua bán, trao tay. Len lỏi trong số những ghe buôn còn có các xuồng nhỏ bán nước giải khát hay thức ăn để cả du khách lẫn người buôn kẻ bán có thể ngồi trong thuyền của họ mà thưởng thức một tô hũ tiếu nóng hổi hay một tách cà-phê thơm ngọt trong khi mua bán.
Gia đình tôi thường đi viếng chợ nổi Cái Bè, gần thành phố Mỹ tho, được coi là trung tâm phân phối hàng hóa trong nước. Tại Cái Bè hoặc các chợ nổi khác, người bán không gân cổ rao hàng. Thay vào đó, họ dùng dây treo món hàng lủng lẳng trên cao để thu hút sự chú ý của người mua. Những chợ nổi lớn họp suốt ngày không ngưng nghỉ. Khi hoàng hôn đổ xuống, đèn đuốc từ các ghe xuồng được thắp sáng rực để dân chúng tiếp tục mua bán tới hừng sáng.
Miền Nam phải nhập cảng một lượng lớn cá tươi từ Biển Hồ bên Cao Miên. Cá được chở xuôi dòng tới đây bởi những ghe chài lớn bằng gỗ. Hai bên thành ghe làm bằng lưới kim loại có hai phao thật to ở hai đầu ghe. Tất cả các ghe cá này đều cặp bến tại Mỹ tho để đổ hàng lên những xe vận tải đưa cá tới Sài gòn, chợ Cầu ông Lảnh từ lúc tờ mờ sáng.
Đồng Bằng Sông Cửu Long đã nổi tiếng về trái cây vùng nhiệt đới và bông hoa - ngay bây giờ cũng vậy. Tại tỉnh Bến Tre, các vườn dừa và vườn cây ăn trái rậm rạp tới mức ánh sáng mặt trời cũng khó soi tới mặt đất được. Vì vậy những cô gái lớn lên trong vùng này có làn da trắng mướt. Thời đó, người con gái Việt làm mọi thứ để tránh cho da khỏi bị sạm nắng. Nhiều cô còn che kín thân từ đầu xuống tới chân.
Nhìn đâu cũng thấy nước, nhà nổi mọc mọi nơi, và người dân nông thôn được hưởng một cuộc sống tương đối dễ chịu. Họ dùng lá dừa nước mọc dọc theo các kinh rạch để lợp nhà rồi trồng rau hay cây ăn trái ngoài vườn. Lúa gạo đầy đồng và rẻ; còn tôm cá lúc nhúc dưới các sông rạch. Mỗi gia đình có thể nuôi gà, vit hay một hai con heo. Dân chúng ăn mặc giản dị trong ngày thường: áo sơ mi, quần ngắn thích nghi với khí hậu mát mẻ quanh năm.
Du khách viếng nơi đây có thể ngồi trên mui của một chiếc ghe lúc hoàng hôn để ngắm những hàng dừa dài vô tận, những ngọn đèn dầu leo lét khắp đó đây và cùng lúc nghe tiếng hò hoặc tiếng ca vọng cổ miệt vườn hòa lẫn với tiếng hót của chim ăn đêm, dế mèn, cóc nhái, và tiếng chó sủa inh ỏi. Tôi còn nhớ đã cùng gia đình hưởng nhiều kỷ niệm vui tươi như vậy.
Chỉ một lượng nhỏ trái cây được bán tại chợ làng mà thôi. Phần lớn trái cây trồng tại Đồng Bằng Sông Cửu Long được tiêu thụ ở những nơi khác trong nước. Người ta dùng ghe chở trái cây tới các vựa bán sỉ để rồi đưa lên thủ đô Sài gòn trên các xe vận tải hay bằng đường xe lửa Mỹ tho-Sài Gòn.
Đồng bằng được tạo bởi những lớp phù sa ở các vùng đất thấp gần cửa sông Mekong dài 4.500 cây số. Với ba mùa lúa trong năm, nơi đây là vựa lúa của nước nhà. Trong thời thơ ấu của tôi, lúa được gặt bằng tay và phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Người nông dân dùng những máy quạt bằng gỗ quây tay để thổi đi cát, bụi và rơm. Trước Thế Chiến Thứ Hai, Việt Nam dẫn đầu các quốc gia xuất cảng gạo.
Trong hai thập niên 1930 và 1940, Trung Quốc còn nghèo và kém mở mang nên thiếu phương tiện để xây những đập nơi thượng lưu sông Mekong. Do đó, đất phù sa từ cao nguyên Tây Tạng và vùng thượng lưu dài cả ngàn dặm Anh có thể chảy xuống tới Việt Nam và đem chất phân thiên nhiên đến cả vùng. Sau này, khi Trung Quốc xây nhiều con đập nơi thượng lưu làm cho dòng sông Mekong bị giảm sút trầm trọng gây nên sự hoảng hốt của dân chúng cuối nguồn vì nạn nước mặn xâm nhập. Kết quả là nguồn cung cấp gạo, cá, trái cây bị tổn hại nhiều.
Vùng đồng bằng không phải là bãi chiến trường chính trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng sau khi người cộng sản chiến thắng, họ áp đặt một chánh sách cai trị khắc nghiệt trên toàn quốc đem lại nhiều lầm than khổ cực, kể cả nạn thiếu ăn trầm trọng. Phải đợi tới năm 1985 khi giới lãnh đạo Hà nội đưa ra phong trào Võ văn Kiệt “đổi mới” thì tình trạng này mới được cải thiện. Lúc đó, nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long mới cày cấy trở lại những mảnh đất phì nhiêu của họ và biến vùng này thành vựa lúa trong nước như xưa. Việt Nam bây giờ đứng thứ nhì thế giới về xuất cảng gạo.
Không phải chỉ ở thôn quê mà cuộc sống nơi thành thị khi tôi còn thơ ấu cũng thanh bình. Nhiều nhà cửa tại Mỹ tho được xây theo lối kiến trúc của người Pháp. Tòa nhà lớn nhứt nơi đây là dinh tỉnh trưởng.
Tòa nhà nhìn ra đại lộ Bourdais (sau được đổi tên là Đại lộ Hùng Vương) con đường lớn nhứt của thị xã, được xem như “Champs Elysées” của thành phố, nơi tổ chức cuộc diễn binh hàng năm vào ngày 14 tháng 7 được gọi là “Jour de la Bastille.” Những tòa nhà khác do người Pháp xây gồm nhà thờ Công Giáo nguy nga, tòa án, tòa hành chánh, trại lính, nhà hộ sanh, và sân vận động. Cần kể thêm một bồn nước cao dùng trọng lực để phân phối nước cho cả thành phố. Ngoài ra còn có một câu lạc bộ khá tráng lệ nằm bên sông Mekong là nơi uống rượu của quan chức người Pháp.
Trong thời Pháp thuộc, hệ thống cảnh sát đầy quyền uy của Pháp thi hành chánh sách kiểm soát khí giới và cai trị dân Việt thật khắt khe. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh viên cảnh sát trưởng người Pháp đạp chiếc xe máy đi thanh tra trong châu thành Mỹ tho. Ông ta thật oai phong trong bộ đồng phục vải khaki và đeo bên hông một khẩu súng lục to tướng đựng trong bao da bóng loáng.
Sự thực vào thời đó, dân chúng toàn quốc có thể sống cuộc đời an bình ngày cũng như đêm. Tỉ như ba tôi, tuy là một thương gia có tiếng trong tỉnh, cũng chỉ xin được giấy phép mua một khẩu súng hơi để săn chim mà thôi. Với một chế độ kiểm soát nghiêm nhặt như vậy, gần như trong cả tỉnh lỵ không kiếm đâu ra được một khẩu súng. Nạn du đãng hay băng đảng cũng không có đất sống. Trong suốt 50 năm, tiệm vàng Khương-Hữu của gia đình tôi không gặp vấn đề trộm cướp gì và cũng không cần mướn nhân viên bảo vệ nào cả.
Mỗi tuần ba tôi đi xe lửa lên Sài gòn đem theo cặp da trong đựng một thoi vàng nặng vài ký. Ông đem vàng tới Ngân Hàng Đông Dương để thử độ vàng rồi đổi ra tiền mặt. Vàng này mua từ nữ trang khách hàng trong toàn tỉnh đem đến bán cho tiệm. Trong nhiều năm ba tôi di chuyển như vậy một mình mà không chút sợ sệt, lo lắng. Thật là cả một thời an bình đã qua.
Ba tôi đôi khi cho tôi chút tiền túi để thưởng công cho tôi vì đã giúp ông nấu những nữ trang mua lại. Chúng tôi dùng một lò nấu với than đước và nhiệm vụ của tôi là quây máy quạt gió nhằm giữ cho nhiệt độ trong lò đủ nóng để làm chảy vàng. Vàng chảy trong một cái giót trước khi được đổ vào cái khuôn bằng thép.
Cuối cùng chúng tôi được một thoi vàng hình giống như một viên gạch để ba tôi đem lên Sài gòn mỗi tuần. Tôi nhớ ba tôi thường đi chuyến xe lửa rất sớm. Tôi được đi theo ba tôi tới nhà ga xe lửa. Cha con chúng tôi thường ghé vào một quán gần đó để ăn điểm tâm. Tôi hay gọi hai món tôi ưa thích nhứt là café sữa và hũ tiếu Mỹ tho, món ăn nổi tiếng cả xứ Nam kỳ và trong cộng đồng người Việt ngày nay ở Mỹ nữa. Ăn xong điểm tâm tôi trở về đi học. Sáu giờ chiều cùng ngày, tôi đi bộ lại nhà ga để đón ba tôi.
Đôi khi, để thưởng cho tôi, ăn tối xong ba tôi dẫn tôi trở lại nhà ga để đáp một chuyến xe đặc biệt. Số là khi xe ngừng ở Mỹ tho mà nhà ga không có đủ chỗ quay đầu trở lại để đi chuyến về Sài gòn, do đó chiếc xe phải chạy thụt lùi tới một vùng ngoại ô thành phố (Vòng Nhõ) mới có thể quay đầu 180 độ. Rồi chiếc xe lại chạy thụt lùi trở về nhà ga để sẵn sàng cho chuyến đi Sài gòn vào sáng sớm hôm sau. Đối với tôi, chuyến đi ngắn ngủi đó luôn đem lại cho tôi nhiều hứng thú.
Tôi có thể tiếp tục kể bao nhiêu chuyện vui tươi khác thời thơ ấu của tôi tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhưng tôi phải dừng lại đây. Tôi thường tự nhủ tôi quả là may mắn sanh ra tại miền Nam thay vì ở Bắc hay Trung. Thật ra ai cũng biết là so với người Hà nội hay Huế, người “Sài gòn” cởi mở và khoan dung hơn. Ngược lại họ hay nói lớn tiếng cũng như nóng tính, cãi lộn và có khi đánh lộn, nhưng rồi sau đó họ sẵn sàng tha thứ và bỏ qua. Đây có thể là bản chất hình ảnh trung thực của cá nhân tôi, một thiếu niên của Đồng Bằng Sông Cửu Long và một người “Sài gòn” chân chính!
Khi còn là một thiếu niên trong hai thập niên 1930 và 1940, tôi đâu ngờ rằng con sông Mekong chảy qua tỉnh nhà Mỹ tho của tôi lại có thể tiếp tục băng qua một Thái Binh Dương bao la để rồi tiến tới bờ biển Vịnh San Francisco, nơi cư trú tương lai của tôi tại nước Mỹ và cũng trở thành quê hương thứ hai của tôi từ thập niên 1970.
Tôi có thể nói đây quả là cả một hành trình dài. Nhưng để được hoàn tất, nó phải đợi cho “qúi” Điểu - một con đại bàng bé nhỏ của Đồng Bằng Cửu Long - đập cánh bay qua Thái Bình Dương và đáp được xuống đất Mỹ. Trong những chương kế tiếp, tôi sẽ cố gắng nhớ và ghi lại cuộc hành trình kéo dài suốt tám mươi lăm năm của tôi. Năm 2015 đánh dấu năm thứ 40 tôi đặt chân tới Trại Pendleton như một người tỵ nạn để tiếp tục sống thêm hơn phân nửa cuộc đời còn lại như là một công dân Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ một cách sâu đậm miền Đồng Bằng Sông Cửu Long nơi còn giữ lại bao kỷ niệm thân quý về Ba Má tôi, họ hàng và bạn bè thời thơ ấu nơi mảnh đất của tổ tiên để lại.