Lúc còn học trung học khi nghe có người than mất ngủ thì tôi lấy làm kỳ lạ, không tin rằng có ai bình thường mà mất ngủ, bởi tôi lúc nào cũng cảm thấy ngủ không đủ dù đã được 7 , 8 tiếng đồng hồ như sách vở nói. Nhưng vào khoảng tháng 4/1975 thì tôi đã mất ngủ thực sự ban đêm vì những tiếng máy bay trực thăng Mỹ ầm ầm nổ trên trời Sài gòn để di tản lính ra khỏi Sài gòn. Và nho nhỏ từ đám nhà lá lụp xụp đàng sau căn nhà chúng tôi ở trên mặt phố vọng lên nheo nhéo tiếng đài phát thanh Việt Cộng :
Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
Diệt Đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước.
Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngất trời.
Sông núi bao nhiêu năm cắt rời
…
Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng!
Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng.
Thề cứu lấy nước nhà! Thề hy sinh đến cùng!
Cầm gươm, ôm súng, xông tới!
…
Và vẫn mất ngủ sau khi tiếng ồn đã ngưng, vì nghĩ đến những hệ quả sẽ tới khi quân Mỹ võ khí hùng hậu đã rút hết và quân Việt cộng sắt máu cuồng tín “cầm gươm, ôm súng, xông tới”, biến cả nước thành Cộng sản, theo như ước vọng của Hồ chí Minh năm 1920 mà chính ông ta ghi lại trong thời gian sống vất vưởng bên Tây khi đọc luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa rằng: “Luận cương của Lenin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi trong buồng một mình mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
*
Rồi tin có một chiếc thuyền nhỏ giữa biển được tầu Anh quốc cứu vớt và cho định cư tại Anh. Và lai rai tin có những chiếc thuyền của những thương nhân giầu có vượt biển bị hải quân VN chặn bắt. Còn tôi trong đầu chẳng có ý định gì vượt biển, vì không có tiền. Nghĩa là ì ra chấp nhận số mệnh. Chờ đợi chuyện gì phải đến sẽ đến. Quay trở lại tự an ủi bằng câu của nhà nho Nguyễn công Trứ có khả năng nhưng vất vả, chỉ thành đạt lúc cuối đời: “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” (một miếng ăn một miếng uống đều do định trước”). Làm sao có tiền được khi tôi sinh ra và lớn lên trong sự nghèo nàn túng đói bởi chiến tranh, mẹ mất sớm khi 11 tuổi, nhưng qua kinh nghiệm sống không thấy tiền là phương tiện toàn năng giải quyết mọi khổ nạn của cuộc đời khiến nẩy sinh ra cái triết lý cá nhân thách đố, bất cần — không chú tâm chạy theo tiền.
1/Tốt nghiệp năm 1963, bị động viên làm y sĩ trung úy. Vào ngày 1/11/1963 mãn khóa huấn luyện quân sự 1 tháng trước khi ra nhiệm sở, có tướng Mai Hữu Xuân cựu giám đốc Công An Cảnh sát Hà Nội, chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung đến dự ít phút (có lẽ là để bầy tỏ cảm tình với các bác sĩ tân khoa). Chẳng mấy chốc sau khi ông Xuân rời tiệc trà thì phía không phận Sài gòn có tiếng nổ. Đồng hồ chỉ đúng một giờ trưa. Thì ra là cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam thành lập từ ngày 26 tháng 10/1955 sau cuộc trưng cầu dân ý do thủ tướng Ngô đình Diệm tổ chức truất phế vua Bảo Đại. Tổng thống Diệm và em ruột là cố vấn Ngô đình Nhu bị giết bởi nhóm tướng lãnh tham vọng Dương Văn Minh, Mai hữu Xuân, Dương hiếu Nghĩa vân vân… thực hiện với sự ủng hộ và thúc đẩy của đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge. Ông Lodge là tân đại sứ mới đến Việt Nam vào tháng 8/1963 và ra mắt mị dân trước báo chí trong bộ quốc phục Việt Nam, cũng như đi thăm các tỉnh nhỏ miền Trung, tiến hành theo lệnh từ tổng thống Kennedy. (Thử nghĩ xem, đại sứ một nước đồng minh mà mặc quốc phục Việt và đi thăm các tỉnh nghèo miền Trung nghĩa là sao). Cuộc đảo chính đã được sửa soạn kỹ bởi truyền thông Mỹ (tuần báo Times và Newsweek phổ thông ở miền Nam lúc đó) và nhắc lại bởi báo chí Việt, tố giác chính phủ Diệm là độc tài gia đình trị đàn áp Phật giáo, với bà “đệ nhất phu nhân” Ngô đình Nhu lộng hành, mặc áo dài cổ hở xuống tới ngực. Người ghét truyền miệng gọi là áo cổ “l.. trâu”. Ngay lúc đó cuộc đảo chánh được gọi là cuộc cách mạng tháng 11/1963, có mục đích lật đổ chế độ độc tài tham nhũng Diệm kỳ thị tôn giáo, đàn áp những cuộc biểu tình của các sư sãi chống đối, do sư Thích Trí Quang cầm đầu. Trí Quang được tá túc trong một tòa nhà của USAID. Tưởng cũng xin nói thêm rằng mãi nhiều năm về sau người ta mới có chứng cớ giấy mực biết Trí Quang là VC.
2/Một năm sau, tôi được giải ngũ vì đậu vào ban giảng huấn về phục vụ toàn thời, không làm phòng mạch, tại khu giải phẫu tiểu nhi Bệnh viện Nhi đồng đường Sư Vạn Hạnh. Ngày cuối trong khi rửa tay mổ với giáo sư Trần Ngọc Ninh tôi nói lời từ biệt để sau đó nhập ngũ thì ông bảo “anh nhớ sửa soạn học thi vào ban giảng huấn nhe”. Tôi từ chối nói “Nhà em nghèo, nhà đông anh em. Học ra bác sĩ là theo ý thân phụ em và rồi để hành nghề lấy tiền giúp gia đình và còn thì giờ làm những điều em thích”. Tôi bạo miệng nói với ông như thế vì trong bụng nghĩ rằng hôm nay là ngày chót mình ra khỏi vòng kiềm tỏa của ông giáo sư đòi hỏi và khó tính này (có lẽ vì ông thuộc câu “giáo bất nghiêm, sư chi nọa (*). Ông trả lời “Nhà tôi cũng nghèo”. Và kể chuyện ông lúc đi học ăn uống kham khổ như thế nào cho tôi nghe. Tôi hết nói. Nhưng cũng không phải vì thế mà quyết định ngay. Phải tới tháng 5/1964 giáo sư Trần Ngọc Ninh nhắn em tôi là Trần Xuân Dũng đang học năm thứ 5 ở trường viết thư cho tôi lúc đó phục vụ ở đại đội 22 quân y sư đoàn 22 Kontum nộp đơn thi vào ban Giảng huấn tôi mới làm. Tôi xin ban chỉ huy đại đội cho về Sài gòn nghỉ phép. Đến nhà giáo sư Ninh trong bệnh viện Nhi đồng xem sự thể ra sao. Gặp ông tôi kể khổ đời sống quân ngũ, bận bịu đủ thứ việc không tên, không có thì giờ ngó ngàng đến sách vở mà cũng không có sách vở gì ở đơn vị. Hy vọng nghe thế ông sẽ cho “tủ”. Ông đứng dậy ra tủ sách lấy ra một quyển dầy cỡ quyển tự điển Cassel’s French English English French dictionary. Tôi cầm quyển sách nhìn bìa biết là một cuốn sách về Chirurgie nhưng trong nỗi thất vọng không được cho “tủ” nên chẳng nhớ tên sách là gì, tác giả là những ai. Về sau nghĩ lại mới thấy rằng có lẽ giáo sư Ninh đã đánh giá kiến thức y học của tôi cao sâu (!) cho nên chỉ cần dở sách xem lại qua loa là đủ. Tuy nhiên vẫn phải nộp đơn thi vào ban giảng huấn. Theo kiểu “liều mình nhắm mắt đưa chân, thừ xem con Tạo xoay vần đến đâu”.
3/Sau vụ VC tấn công năm Mậu Thân 1968, thay vì đi Pháp như dự tính ban đầu lúc trường Y khoa còn theo quy chế huấn luyện Pháp, tôi ở vị trí nhân viên giảng huấn trợ giáo cho giáo sư Trần Ngọc Ninh được học bổng hội AMA sang Children’s Memorial Hospital ở Chicago học với giáo sư Orvar Swenson một chương trình bổ túc đặc biệt. Xin nói ở đây là giáo sư Swenson là người tiên phong đặt ra những nền móng căn bản cho bộ môn Giải phẫu tiểu nhi của Mỹ (và mặc nhiên là thế giới Tây phương). Theo đó mỗi ba tháng sẽ có thảo luận lượng giá giữa giáo sư Swenson và tôi để xem những thiếu sót của tôi nếu có, cần tiếp tục học thêm tại chỗ, hoặc là được giới thiệu đến một trung tâm giải phẫu tiểu nhi khác. Cứ như thế, tôi đã tiếp tục với giáo sư Swenson. Trong buổi lượng giá cuối cùng năm 1970, vì hài lòng với thành tích của tôi, ông đã bảo tôi rằng nếu muốn thì ông sẽ cho tôi ở lại giới thiệu cho học thêm một năm ngành cơ thể bệnh lý học (pathological anatomy) để được hiểu biết tròn trịa - “well-rounded”, (tôi còn nhớ chữ ông dùng). Ý là ông muốn đưa tôi theo con đường ông đi mà nhờ thế ông đã khám phá ra nguyên nhân bệnh Hirschsprung’s disease, tìm ra cách chữa và nổi tiếng. Nhưng tôi cám ơn từ chối, để về nước. Ông bèn giới thiệu cho tôi đi quan sát hai tháng những trung tâm giải phẫu tiểu nhi có danh ở Mỹ và Ẫu châu mà các vị giáo sư trưởng khoa ông quen biết.
Tiến sĩ Ira Singer trách nhiệm chương trình hội AMA ở Chicago cải thiện giáo dục của đại học Y khoa Sài gòn nhiệt liệt tán trợ đề nghị này nhưng khoa trưởng Phạm Tấn Tước đầu óc kỳ thị Nam Bắc không cho. Tôi biết ông Tước từ khi tôi là sinh viên năm thứ hai đi thực tập khu nội thương bệnh viện Chợ Rẫy mà ông làm bác sĩ điều trị. Chẳng dậy dỗ là bao nhiêu trong trại bệnh. Còn trong những buổi họp giảng dậy sinh viên có mặt giáo sư người Pháp trưởng khoa Nội thương Auguste Rivoalen thì nói lắp ba lắp bắp vì không bình tĩnh. Tuy ông Tước bác đề nghị nhưng trong thời gian ở Mỹ nhờ có biết một vị trong tòa đại sứ Việt Nam ở Washignton DC nên tôi vẫn được chiếu khán đi Âu châu. Xong cuộc Âu du, tôi về tới Sài gòn tháng 10/1970 làm việc lại tại khu Giải phẫu tiểu nhi và được giáo sư Trần Ngọc Ninh đề nghị lên Hội đồng Khoa cho tôi làm giảng sư. Tôi mở cờ trong bụng nghĩ rằng sẽ thực hiện được tham vọng tổ chức cải thiện khu Giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng theo mô thức Children’s Memorial Hospital ở Chicago để mời giáo sư Swenson sang thỉnh giảng khi hoàn tất. Về sau này nghĩ lại thấy ước vọng chẳng khác gì chuyện “con nhái muốn to bằng con bò” do thực tế nghèo nàn nhân sự, phương tiện và đầu óc thủ cựu lạc hậu Việt Nam lúc đó : Tôi mang một máy monitor hài nhi sơ sinh theo rõi hơi thở, nhịp tim, áp huyết, và điện tâm ký bệnh nhi, theo kiểu từ Children’s Memorial Hospital Chicago về khu giải phẫu tiểu nhi Bệnh viện Nhi đồng. Nhưng không có ai biết điều chỉnh ngoài khả năng bấm nút mở và tắt máy. Cho nên để đó chẳng dùng được mấy. Không khác bao nhiêu tình trạng tháng 9 năm 1978 sau khi đi cải tạo về, tôi được VC chuyển sang làm việc ở bệnh viện Grall của Tây được gọi là bệnh viện Nhi đồng II, với trách nhiệm tổ chức một khu giải phẫu tiểu nhi thứ hai dành cho con cái gia đình cán bộ cách mạng. Nhưng người y tá trưởng trong khu được VC lưu dụng nói nhỏ cho tôi biết rằng ‘hiện nay chưa có bệnh con nít là bao nhiêu, bác sĩ buổi trưa vào khu nhà mổ mà nghỉ có máy lạnh. Mà bác sĩ cũng sẽ không làm gì được đâu. Vì máy móc hỏng hết rồi. Lúc chúng nó vào tiếp thu bắt tắt hết máy lạnh để tiết kiệm điện. Sau một thời gian nghe lóm đâu đó cán bộ y vụ mới ra lệnh cho mở máy lạnh ra thì hỏng hết tất cả các mày móc rồi’. Làm ở Grall chẳng mấy ngày, gặp cơ hội thuận tiện có một không hai là có người bạn ngoài y giới cho vượt biên chịu, sang Mỹ trả sau, tôi đã vượt biển giữa mùa mưa bão gần dịp lễ Vu Lan.
*
4/Một chút về quyền lợi của công việc. Tôi tối ngày sáng đêm ở khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Nhi Đồng đường Sư Vạn Hạnh để lo cho “bệnh nhân thí”, chẳng giống ai. Và được cấp cho một cái phòng nhỏ chừng 3mx4m trên lầu hai của một trong hai buildings của bệnh viện mà một được dùng làm chỗ ở của giáo sư Trần Ngọc Ninh trưởng khoa giải phẫu và giáo sư Phan đình Tuân trưởng khu Nhi Khoa kiêm giám đốc bệnh viện. Thấy tôi nghèo rách mà làm việc như trâu, bà y tá trưởng (hiện nay còn sống ở Dallas Fort Worth Texas) khuyên tôi nên mở một phòng mạch vài tiếng đồng hồ buổi chiều sau giờ làm việc ở ngay gần bệnh viện. May mắn là kiếm được trên đường Lý Thái Tổ một căn nhà mặt đường của một người quen, giữa Ngã bẩy và đường Sư Vạn Hạnh cách nhà thương dăm bẩy phút đi bộ. Bà còn giới thiệu cho tôi chị Hoa y công khu ngoại chẩn ra phụ với số lương tối thiểu. Với số giờ làm việc giới hạn đó, bệnh nhân chẳng có bao nhiêu, ngoài những người được giới thiệu hay là quen biết tôi.
Trong hoàn cảnh hành nghề tư này thì có một bệnh nhân là ông Nh. tới. Ông Nh. là bạn của một nhà báo có con đã được tôi mổ chữa chứng sa ruột (sa đì). Ông nhà báo này cho rằng tôi là “thầy mổ” hạng cao. Vì đã được huấn luyện y khoa theo hệ thống Tây rồi lại đi tu nghiệp hai năm ở Mỹ. Mà có lẽ cũng vì để trả ơn đã mổ con ông. Khốn nỗi tôi vốn có tính coi bạn của bạn là bạn nên ra tay hươi dao mổ “chùa” không lấy tiền, cho ông Nh. ở phòng mạch rồi quên béng, vì thực tình đối với tôi đó chỉ là một cuộc “mổ” nhỏ, không đáng gì.
Khoảng giữa tháng tư 1975 ông Nh. tới phòng mạch. Ông không khám bệnh mà nói với tôi rằng ông làm sở Mỹ. Ông biết Sài gòn sẽ không còn tồn tại lâu. Vì quen biết với một giới chức cao cấp ở Vũng Tầu có một cái tầu ngon lành tính rời nước sang Úc theo “cái lõng” Indonesia. Không đi sang Thái Lan để tránh mối nguy hải tặc Thái Lan. Và cũng không đi Mỹ mà chủ tầu, cũng như ông, ghét nặng vì thói ăn ở đối xử không tình nghĩa với bè bạn đồng minh. Ông nói nếu muốn, thì ông sẽ đưa ra Vũng Tầu xem cái tầu đậu sẵn ở đó, đầy đủ dầu nhớt để nhổ neo. Nhưng chỉ nhổ neo khi Việt cộng tới chặn cầu Cỏ May thì mới không bị hải quân chặn bắt. Tôi có thể mang theo gia đình lớn nhỏ gì cũng được. Tôi nói không có tiền. Nếu đi mà sống sót thì sang Mỹ đi làm rồi mới trả được. Ông đáp các cụ dậy rằng ‘người ta sống bằng nhân nghĩa, không mấy ai sống bằng cả bát cơm. Bác sĩ không quen biết gì tôi mà giải quyết nhấp nháy nỗi khổ kinh niên của cái chân tôi không lấy tiền, chẳng khác mấy chuyện bát cơm Phiếu mẫu’.
Tôi thật là buồn ngủ gặp chiếu manh, và hơn thế nữa, là trúng số. Tôi đã theo ông đi xem chiếc tầu và sắp xếp quần áo với thực phẩm cho gia đình mà chủ yếu, là gạo. Trên tầu có đồ hộp PX rồi. Gia đình tôi xuống Vũng Tàu chờ ở đó. Khi nghe Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức giao cho thầy giáo già kỳ thị Nam Bắc Trần Văn Hương thuộc nhóm Phục Hưng Miền Nam, nổi tiếng nhờ một bài thơ gãi dế, tôi nóng ruột về Sài gòn xem tình hình. Chưa vào đâu với đâu thì ngày hôm sau cả gia đình tôi về tới Sài gòn vì nhận được tin của bà chị vợ làm cho LHQ ở New York nhắn rằng về Sài gòn chờ giấy tờ cho đi chính thức bằng máy bay. Đi đường biển bất trắc nguy hiểm lắm. Tôi vòng trở ra Vũng Tầu xem chiếc tàu và lấy lại những va li quần áo đem về. Đến Cầu Cỏ May thì VC đã chặn. Tôi theo một nhóm nhỏ quân Nhảy dù mất liên lạc với bộ chỉ huy binh chủng và quân đoàn bị chững lại tại cầu Cỏ May, dùng thuyền qua Cấp trở lại. Qua khỏi cầu, lên bờ lấy xe ba bánh ra Cấp. Ra đến gần trường Thiếu Sinh Quân là chiều ngày 29. Kẹt ở đó. Khi có xe đò về Sài gòn thì lúc đến gần cầu xa lộ thoang thoảng mùi tử khí in ỉn. Sài gòn đã mất sau cuộc giao tranh giữa quân Nhẩy Dù và VC ở đây. Tôi đi tù tập trung cải tạo trở về ngày 2 tháng 9 năm 1977. Làm việc ở Nhi đồng 1 rồi Nhi đồng 2 (bệnh viện Grall cải biến cho con cái gia đình cách mạng) gần 1 năm.
Ngày 3 tháng 7 ta năm 1978 gần lễ Vu Lan tôi vượt biển nhắm hướng Phi luật Tân vì thuận chiều gió mùa đông nam tây bắc và cũng là mùa bão. Tôi biết điều này từ khi còn trong trại cải tạo bụng muốn vượt biển khi được thả nên lai rai nói chuyện với một đồng tù khi có dịp, vốn làm cho sở địa dư. Trên đường sang Phi, thuyền giạt vào đảo Pag Asa do Phi trấn giữ, chiều ngày 13 tháng 8 tây 1977 lúc hoàng hôn. Con trai đầu của tôi hai tuổi rưỡi chết khát buổi sáng vì cơ thể khô hết nước! Cháu chết khi trong miệng còn ngậm một muỗng cà phê nước mưa bóng mây lẫn bụi hứng được từ miếng vải bạt che một góc boong thuyền. Lúc tắt thở, có mùi hôi vì mở hậu môn, tôi bế cháu ra mạn thuyền nhúng cháu xuống biển tắm cho cháu sạch sẽ, vì thuyền chở khẳm nước mấp mé boong. Lòng tê cứng không một chút cảm giác. Sáng hôm sau ngày 14 tháng 8 chôn cháu xong ở Pag Asa tôi được thiếu tá chỉ huy đơn vị xin một máy bay quân sự DC3 chở đi bản doanh của quân khu Western Command ở đảo Palawan. Rồi từ Palawan bay đi Manila. Cả gia đình được tá túc ở trại tỵ nạn Mandaluyung là một địa điểm dành cho những người bị bệnh nan y kinh niên đang bỏ trống. Lúc đó chính quyền và dân chúng miền Nam VN, cũng như lính Mỹ chiến đấu ở VN, bị truyền thông Mỹ khinh ghét coi là hèn kém không chiến đấu (vì phán quyết của viên tướng già về hưu Do Thái chột mắt Moshe Dayan sau một chuyến thăm VN ngắn vài ngày) và do chiến lược thế giới tam phân (trilateralization của ngoại trưởng kiêm giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Henry Kissinger người Do Thái-Đức, quốc tịch Mỹ) gồm Mỹ Nga Tầu, thay cho chủ trương lưỡng cực Nga Mỹ thời Chiến tranh lạnh). Tuy cuộc rút quân là một quyết định chiến lược Do Thái-Đức mà chính phủ Hoa kỳ thi hành nhưng biểu kiến đối với quần chúng thì đơn giản chỉ là Mỹ thua trận. Thua một nước nhỏ lạc hậu là Bắc Việt Nam mà lính lội bộ băng rừng đi dép râu và không có đồng phục.
Kissinger và Mao
*
Giải thích cách mấy thì cũng không thể nào đàn giải được cái mặc cảm tự tôn nước giầu mạnh nhất thế giới, và người to đùng da trắng võ khí tối tân trang bị tận răng, với cái tự ti thất bại thua một nước tiểu nhược bộ đội nhỏ con không giày. Tổng kết lại là một cái tâm cảm khó tả, được gọi là hội chứng Việt Nam, kéo dài qua những tổng thống sau, sang đến đầu thế kỷ thứ 21 mới dứt vì biến cố lớn 911 ngay tại đất Mỹ.
*
Cho nên chính quyền Mỹ lúc đó không có chính sách nhận người Việt vượt biển chạy Cộng sản. Vì Mỹ chuyển chiến lược từ ngăn chống Cộng sản sau khi Mao trạch Đông chiếm được Trung quốc năm 1949 sang Sống chung hòa bình sau thông báo của Chu Ân Lai ở Bandung (Indonesia). Quan điểm Mỹ chính thức là chỉ cho định cư những người tỵ nạn vì lý do nhân đạo nghĩa là đã bị các nước phỏng vấn từ chối. Cá nhân tôi vì đã cương quyết nói với giáo sư Swenson là trở về VN năm 1970 để canh tân khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng cho nên cũng xấu hổ im lặng không liên lạc từ trại tỵ nạn với bạn bè đồng học Mỹ, trừ một người bạn bác sĩ Ấn độ là Rangarathnam. Rangs cùng tương tự hoàn cảnh là tốt nghiệp xong về nước không có việc làm mà phải trở lại Mỹ làm trong phòng thí nghiệm của giáo sư Swenson. Người này kể lại cho một đồng học Mỹ của tôi là Joseph Sherman. Joe là một người theo đảng Cộng hòa đã mau mắn viết thư cho thượng nghị sĩ Cộng hòa tiểu bang Illinois uy tín lúc đó là Charles Percy nhờ ông này can thiệp cho tôi sang Mỹ (dù tôi không nhờ và liên lạc với anh), qua thư gửi cho cao ủy tỵ nạn Liên hiệp quốc ở Phi là Blatter, người Thụy Sĩ. Ông Blatter ghét tôi. Vì trái với những đại diện trại tỵ nạn trước tôi thường hàng ngày lên chầu chực ở văn phòng Cao ủy xem có việc gì sai vặt thì làm bởi nghĩ rằng đó là một cách được Cao ủy để ý mà cho định cư nhanh chóng, tôi cứ ở yên trong trại tỵ nạn không bao giờ lên đó cầu cạnh. Lại càng ghét tôi khi có những thư từ cá nhân của Joe Sherman bạn tôi tìm cách giúp đỡ tôi. Cho rằng tôi vì thế mà coi thường ông! Và bỏ sang bên vì không phải là thư bảo lãnh. Thực tế là những người được tầu các quốc gia Âu châu cứu vớt thường được định cư nhanh chóng. Những người tự thân đến đảo thì chờ đến khi có các linh mục hay mục sư truyền đạo vào trại lôi kéo được theo đạo mà tìm ra người bảo trợ cho đi định cư. Gia đình tôi được Phi luật tân cứu nhưng Phi không có chính sách giúp người tỵ nạn. Những người được phỏng vấn bảo lãnh mà từ chối thì cứ ở đó chờ “mút chỉ” cho tới khi bị trả về nguyên quán.
Sau cùng Blatter đã thấy dịp may để làm khó (chơi sỏ) tôi. Một phái đoàn Úc tới phỏng vấn. Tôi là người đầu tiên trong danh sách Blatter cho gọi đến phỏng vấn (cốt cho tôi đi Úc). Sau khi xem xét hồ sơ người phỏng vấn hỏi tôi rằng muốn định cư ở đâu. Rất thành thực tôi nói rằng khi đã ra khỏi được chế độ Cộng sản Việt nam, tôi ở đâu cũng được. Nhưng từ khi còn là một học sinh trung học Việt Nam tôi đã từng biết qua các bài học địa lý rằng Úc là nước đất rộng người thưa, tỷ trọng dân là 1 người trên 1km2, làm nông nghiệp cũng sống thoải mái. Và thực sự tôi đã quá mệt mỏi dưới chế độ Cộng sản, không còn muốn làm gì phải suy tính khó khăn vất vả. Chỉ muốn ban ngày lao động chân tay đủ sống rồi chiều tối về nhà yên ổn cạnh vợ con. Bây giờ sau một thời gian trên đất Phi luật Tân, nếu cho phép thì tôi cũng ở lại chẳng cần đi đâu nữa. Và thực là như thế. Vì trong những giờ phút hoảng loạn của Sài gòn đầy người chạy giặc từ miền Trung vào và sắp bị Cộng sản chiếm với sự a tòng giúp đỡ loan tin giả của các phương tiện truyền thông lớn tiếng toàn cầu VOA và BBC tôi đã có ý tưởng sang Côte d’Ivoire là một nước ở tây Phi Châu là nơi tôi có người bạn gửi thư về kể chuyện đời sống dễ dàng thoải mái. Sang đó tôi nghĩ là xin passport xuất cảnh dễ dàng, dầu dưới chính phủ Việt Nam Cộng hòa trong chiến tranh thời đó chuyện xin xuất ngoại ra các nước văn minh phồn thịnh rất khó khăn. Nhân tiện nói thêm là giáo sư Trần đình Đệ giáo sư khoa trưởng Sản Phụ khoa từng tu nghiệp ở Mỹ và từng là bộ trưởng Y tế khi rời chức năm 1963 đã sang Phi Châu ở một thời gian trước khi được định cư ở Mỹ,
Nghe xong những trả lời của tôi người trưởng phái đoàn kết luận “Ông là bác sĩ từng du học ở Mỹ và Âu châu, rõ ràng là ông có đủ điều kiện hành nghề ở Úc, không cần đổi thành nông gia. Tuy nhiên xem kỹ hồ sơ thì gia đình vợ ông tất cả đều ở Mỹ. Theo tôi hiểu thì vấn đề gia đình họ hàng rất là quan trọng, nhất là đối với người Việt Nam. Cho nên chúng tôi sẽ từ chối nhận ông hôm nay vào Úc để ông được Mỹ phỏng vấn. Nếu ông bị Mỹ từ chối, thì cho chúng tôi biết. Và ông sẽ được lập tức nhận vào Úc. Được không?”.
Tôi cám ơn, bụng nghĩ thầm được quá đi chứ. Thân vong quốc vì Cộng sản mà còn được chọn lựa nơi định cư là hai nước lớn hòa bình sung túc hạng nhất thế giới! Buổi phỏng vấn chấm dứt. Một tuần sau, xong hết thủ tục giấy tờ và xuất tiền cho mượn trả vé máy bay, tôi cầm thông hành lên máy bay rời phi trường Manila đi Mỹ, đến phi trường San Francisco.
Tôi bắt đầu những ngày mới từ mồng 2 tháng 3 năm 1979 trên đất Mỹ. Và có những bạn mới trong và ngoài Y giới ở Bắc Mỹ, Âu châu và Úc châu, thuộc mọi thành phần, mọi lứa tuổi. Thân thiết vì cùng chung ý hướng. Kể tên ra không xiết và sẽ thiếu sót.
++
Chú thích:
(*) Giáo bất nghiêm, sư chi nọa (hay đọa) ý là “dạy học trò không nghiêm là do thày bê trễ”
Bác sĩ Trần Xuân Ninh (ngày 18 tháng 2 năm 2025)