Chu Văn An (1292–1370), tên thật là Chu An, tên thụy là Văn Trinh, tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần. Sau khi mất, ông được vua Trần truy phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An hay Chu Văn Trinh. Ông được “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” đánh giá là ông Tổ của các Nhà Nho nước Việt.
Ông được coi là người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc của VN, đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học, với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội.
Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ người VN mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại, gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.
Chu Văn An quê ở làng Văn Thôn,Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Ngay từ khi còn trẻ, ông đã nổi tiếng là một người thanh liêm, chính trực, tiết tháo và không cầu danh lợi; đã từng đỗ Thái Học Sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, học trò tìm đến rất đông.
Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng Giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1300–1357) mời ông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám, dạy cho Thái Tử Trần Vượng, tức là Vua Trần Hiến Tông tương lai.
Đến đời Dụ Tông, thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều Ẩn (người hái củi ở ẩn) dạy học, viết sách cho tới khi mất.
Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Tể Tướng Phạm Sư Mạnh, Thượng Thư Lê Bá Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp.
Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.
Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều huyền thoại được lưu truyền nói về nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất.
Ông biết đó chính là Thần Nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên Đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho".
Sau đó, người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời thì thầm khấn vái và kế đó lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn, sấm chớp vang trời. Đêm hôm ấy, mọi người nghe có tiếng sét lớn và đến sáng hôm sau thì thấy có thây một con thuồng luồng nổi lên ở trong đầm.
Nhận được tin, Chu Văn An khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an tang chu đáo, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Ngày nay vẫn còn dấu vết ngôi mộ thần ấy.
Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.
Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.
(Mây lành từ nghiên mực bay lên,
một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).”
Câu chuyện trên đây chỉ là một trong những giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó, chúng ta cũng có thể nhận thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
Đến đời Vua Trần Minh Tông (1300 – 1357), ông được mời vào làm Tư Nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.
Đến đời Dụ Tông (1336-1369), chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi).
Sau đó, Dương Nhật Lễ cướp ngôi nhà Trần. Hoàng Tử Phủ con Trần Minh Tông đánh tan được bọn Nhật Lễ, lên ngôi (Nghệ Tông). Chu Văn An từ Chí Linh chống gậy ra mừng vua. Trần Nghệ Tông (1320 - 1394) muốn mời ông ra tham dự việc triều chính nhưng ông từ chối.
Bà Hiến Từ Hoàng Thái Hậu đã nói một câu chí lý: "Người ấy là bậc cao sĩ, thanh thiết, nhà vua không thể bắt làm bầy tôi được đâu...". Vua thưởng cho mũ áo, ông nhận và lạy tạ nhưng đem về cho người khác. Ông vui sống với học trò ở núi Phượng Hoàng, rồi mất vào khoảng cuối tháng 11-1370, thọ 78 tuổi (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: Quốc Ngữ Thi Tập bằng chữ Nôm và Tiều Ẩn Thi Tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ Thư nhan đề Tứ Thư Thuyết Ứớc.
Theo tên sách, ta có thể biết đây là tập giáo trình đầu tiên bàn về bốn quyển sách quy định trong chương trình giảng dạy: Đạ Học, Trung Dung, Luật Ngữ và Mạnh Tử. Tiếc thay, tập giáo trình này đã bị nhà Minh lấy mất. Nếu còn bộ sách, chúng ta sẽ hiểu cụ thể quan điểm của ông.
Nhà Giáo Dục Chu Văn An cũng là người chủ xướng 4 quan điểm nhân sinh sau:
- Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật.
- Chính tâm: luôn luôn giữ lòng mình cho chính, không làm điều gì trái với lương tâm.
- Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí.
- Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến nhân tâm.
Với bốn quan điểm này, chúng ta thấy rõ là Nhà Giáo Dục Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả hai mặt Trí Dục và Đức Dục, Học và Hành.
Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển “Y Học Yếu Giải Tập Chu Di Biên” gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông Y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh.
Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phượng Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất) của đức; Trinh là tính chính trực, kiên định của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định.
Có thể nói Chu Văn An là một Nhà Giáo Dục tài đức trọn vẹn, có những đóng góp to lớn với đất nước và đạo học. Trong lịch sử giáo dục của Việt Nam, ông đã giành được địa vị cao quý bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay.
Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng. Làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".
Sự nghiệp của ông được ghi lại trong câu đối thờ ở Văn Miếu: “Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc/ Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong”. (Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả? Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân)
(Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn)