LỜI NÓi ĐẦU: Tôi chưa hề có ý định viết lại cũng như không muốn nhớ tới những ngày cuối cùng của tháng tư đen. Vì đến bây giờ, lịch sử đã phô bày rõ ràng là các nổ lực chiến đấu của QL/VNCH nói chung và các thành viên trong đó nói riêng, đều vô vọng trong một ván bài đã được định sẳn của các cường quốc. Họ tạo ra một không khí hoảng loạn để các đơn vị QL/VNCH buông súng, đồng thời có không ít các nhà lãnh đạo và chỉ huy quân sự cao cấp biết trước thời cơ, tự lo lấy thân mình để mặc cho thuộc cấp trôi theo dòng đời. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, vẫn có những nổ lực kiên cường và những quyết tâm đơn độc để duy trì sức chiến đấu cho đơn vị, đến tận giây phút cuối cùng trong những ngày của tháng tư gọi là "nghiệt ngã" đó.
++++++++++
Ăn cơm xong, tôi cầm túi xách nho, từ biệt mẹ tôi để xuống tàu đi công tác. Bà nói:" Má thấy kỳ nầy nguy hiểm lắm nghe con. Đà Nẳng mất rồi. Má mua mấy bao gạo để dành. Con rán giữ gìn nghen". Tôi gắt lời bà già: " Má lúc nào cũng lo, làm tụi bán chợ đen có dịp thao túng". Bà thẩn thờ nhìn tôi rời nhà trưa ngày 30/3/1975.
Tàu tôi, HQ 231, đang sửa chửa đại kỳ, theo chương trình đến tháng 5/75 mới xong. Nhưng vì biến động miền Trung, Bộ Tư Lịnh Hạm Đội can thiệp Hải Quân Công Xưởng sửa chửa gấp để HQ 231 lên đường tham dự chiến trận. Tôi nhận được lịnh hành quân đi Cam Ranh, BTL/V2DH. Tàu tách bến lúc 5 giờ chiều, từ từ chạy qua tượng Đức Trần Hưng Đạo. Tôi đưa tay chào kính Ngài. Tôi thấy Ngài đưa tay chỉ xuống dòng sông và hình như Ngài bảo: "Không đuổi được giặc, đừng về đây". Trong lòng trăm mối ngổn ngang, cảm thấy chuyến đi nầy nhiều bất trắc, tôi ngồi thừ trên đài chỉ huy đến 12 giờ khuya. Tàu sắp ra cửa biển, lại nhận được công điện thay đổi công tác: "Neo Vũng Tàu, chờ lịnh mớ́i".
Sáng hôm sau, lên trình diện BTL/V3DH tại Cát Lở để nhận lịnh công tác khác. TMP/HQ là Thiếu Tá Lê khánh Dư bảo: " Cam Ranh đang di tản, HQ 231 chưa ra đó được, chờ lịnh mới. Tạm thời đi tuần bảo vệ dàn khoan". Đi tuần bảo vệ dàn khoan có nghỉa là được thêm tiền phụ trội do dàn khoan trả, tôi cũng mừng cho đời lính đở khổ. Cầm lịnh hành quân về tàu, tôi chuẩn bị nhổ neo đi công tác thì nhận được lịnh hủy bỏ. Tối hôm đó, tàu nhận được lịnh pháo mấy điểm ở Gành Ráng, mật khu địch quân. Tiếng đại bác 76,2 ly ầm ì, tôi có cảm giác như tiếng gầm rống cuối cùng của chúa sơn lâm , trước khi hậm hực bỏ vào rừng mất dạng.
Mấy ngày sau đó, chiến hạm được lịnh tuần tiểu canh chừng các thương thuyền và xà lan chở người di tản từ miền Trung về. Trên xà lan lúc nhúc đầy người, các bà mẹ ôm các đứa con gầy rạc, dơ lon ra xin nước uống. Tôi nhận được lịnh không được cặp vào các xà lan và thương thuyền vì trên đó có bọn cướp giết người, cướp của. Chúng tôi tận dụng mọi thứ, cái gì đựng nước được là đem ra xử dụng, rồi quăng vào các xà lan, tiếp tế một cách tuyệt vọng cho ̣đồng bào trên đó, để chia xẻ một chút tình người. Cảng Vủng Tàu náo động hẳn lên, đầy nghẹt thương thuyền và chiến hạm. Ngoài khơi hai chiếc LST (Dương vận hạm) của Đài Loan, đang neo nằm im lìm chờ đón kiều bào của họ. Lính TQLC Đài loan canh gác trên tàu, đứng im như các pho tượng .
Cuối cùng, HQ 231 nhận được lịnh đi Cam Ranh. Chiến hạm quay mủi tàu ra khơi một cách mạnh mẽ, háo hức hoàn thành nhiệm vụ mới. Trên đường đi, công điện BTL/HĐ gởi ra tới tấp, dặn các hạm trưởng đích thân giữ chìa khóa kho súng, đề phòng phản loạn. Tôi bình tĩnh, kín đáo dặn riêng Trung uý Hiển, sĩ quan trọng pháo, bảo ông giữ chìa khóa thay vì hạm trưởng, xem như tình hình vẫn bình thường, để tinh thần thủy thủ không bị hoảng loạn. Mỗi sáng có công điện kỷ thuật, báo cáo tình trạng kỷ thuật của chiến hạm, tôi dặn Hạm Phó, tất cả các mục đều ghi tốt để tỏ thiện chí phục vụ và tránh gây ưu phiền cho BTL/HĐ. Không ngờ đây là điểm sai lầm của tôi. Sau nầy, TL/HĐ là Đại Tá Nguyễn xuân Sơn tiết lộ cho biết, ông kín đáo cho sắp xếp các chiến hạm tuần tự về Sài Gòn. Riêng HQ 231, ông quên mất , chắc có lẽ vì các công điện báo cáo kỷ thuật nói trên.
Trên đường đi, gặp HQ 08 báo cáo hai máy bất khiển dụng, neo khẩn cấp ngoài khơi Phan Rang. Tôi cặp tàu vào, ghé thăm Hạm Trưởng Thiếu Tá Nguyễn trường Yên. Anh là sĩ quan, chuyên nghiệp giỏi nhứt khóa tôi. Anh có vẽ mệt mõi và chán nản. Tàu đến Cam Ranh nhưng không vào trong vịnh. BTL/V2DH đã di tản còn chơ vơ lại chiếc HQ 605, Hạm Trưởng Thiếu Tá Trịnh như Toàn. Trên tàu có Thiếu Tá Đặng quang Lạc, thuộc BTL/V2DH. Tôi phỏng vấn anh Lạc, tình hình ra làm sao. Anh Lạc, một người năng nổ, đã từng bắt sống Việt Cộng lúc còn là thiếu uý, khi phục vụ ở giang đoàn tuần thám, bây giờ xuống sắc thấy rỏ. Anh nói: "Tình hình kỳ cục lắm. Tao theo Đề Đốc Minh để đổ bộ Qui Nhơn. Ra đến nơi thì Qui Nhơn mất rồi. Lẹ không thể tưởng tượng được". Tôi cười cười với anh: "Mất rồi thì lấy lại". Bây giờ mới thấy là tôi quá ngốc nghếch.
Nha Trang vào tay địch, HQ 605 và HQ 231 nhận lịnh án ngử phòng tuyến phía Bắc Cam Ranh đề phòng tàu địch xâm nhập. Toàn rủ tôi vào vịnh Nha Trang quan sát, nơi mà chúng tôi theo học suốt hai năm, xem bây giờ ra sao. HQ605 chạy trước, khuất vào trong vịnh giữa Bãi Dài thuộc bán đảo Cam Ranh và Hòn Lớn. Tôi chuẩn bị quẹo theo anh thì nghe tiếng đại bác rít lên và tiếng Toàn trong máy: "Nó bắn tao Phước ơi". Còi nhiệm sở tác chiến của HQ 231 vang lên dồn dập, đại bác 76,2 ly và các khẩu 40 ly chĩa vào Cầu Đá Nha Trang tìm kẻ địch. Chiếc HQ 605 chạy ngược chiều trở ra, vải bố căng sau tàu rách tơi tả. Tôi nhìn ống dòm quan sát, không thấy kẻ địch ở đâu, chỉ thấy dân chúng đi qua, đi lại trên bờ thong thả. Chắc bọn chúng bắn lén rồi "chém vè". Trong tíc tắc, tôi quyết định cho tàu quay trở ra vì tiến vào chỉ đưa đầu cho kẻ địch núp bắn, còn bắn ẩu thì chỉ chết dân.
HQ 605 được lịnh về Sài Gòn, HQ 231 ở lại đơn độc thi hành nhiệm vụ. Cam Ranh mất, tôi được lịnh về Phan Rang. Một chiếc tàu buôn Mỹ 20.000 tấn tiến vào vịnh Phan Rang. Tàu tôi chớp đèn hỏi, nó trả lời: đến để di tản dân chúng. Cần ghi nhận ở đây, lúc đó Phan Rang chưa mất như vậy tàu Mỹ nhận lịnh của ai? Nếu không phải là một thế lực muốn làm tan rã QL/VNCH thì lịnh xuất phát từ đâu và tại sao họ biết Phan Rang sẽ mất?
Qua ngày hôm sau, chiến hạm hết thức ăn tươi vì đi liên tục ngoài biển nửa tháng. Tôi xin cho tàu đi chợ Phan Rang. Chiếc tiểu đỉnh của tàu chở nhân viên đi chợ. Mấy đồng hồ sau , tiểu đỉnh trở về, gương mặt các thủy thủ đi chợ có vẻ hoảng hốt vì trông thấy T54 của địch xuất hiện ở chợ Phan Rang. Trên bầu trời, một chiếc trực thăng bay vần vũ gần một chiếc WHEC (Tuần dương hạm) rồi một bóng người nhảy xuống biển. Sau đó mới biết là Thiếu Tướng Trần văn Nhựt, TL/SĐ2BB. Mặt trận Phan Rang tan vở. Tàu tôi về trấn ở eo biển Cà ná, phía nam Phan Rang.
Quốc lộ 1 chạy song song và sát bờ biển Cà Ná. Ban đêm, quốc lộ 1 sáng rực lên, kéo thành một vệt dài như con rắn, uốn khúc theo sườn núi. Quân xa của địch, mở đèn sáng trưng, chạy nườm nượp như vào chổ không người. Tôi thở dài: Phan Thiết chắc chắn rồi sẽ mất, nhưng là chiến sĩ thì phải chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. HQ231 tắt đèn tối om, tiến sát vào bờ và bắn trực xạ vào đám lúc nhúc đó. Nghe tiếng đại bác, chúng vội vàng tắt đèn đứng im. Chiến hạm cũng ngừng bắn vì không thấy bọn chúng.
Khi chúng mở đèn tiếp tục chạy, chiến hạm lại bắn. Thỉnh thoảng một chiếc xe cháy đỏ rực lên là biết trúng đạn của chiến hạm. Địch hoạt động suốt đêm. Chúng tôi cũng bắn phá liên tục không biết mệt vì nghĩ đến sự an toàn của đất nước. Nửa đêm về sáng, hoạt động giảm dần, chắc có lẻ địch bị thiệt hại nặng và bị ngăn chặn nên không tiến nhanh được.
Sáng tờ mờ đã thấy nhiều chiếc T54 của chúng xuất hiện đồng thới cũng thấy HQ11 (Hạm trưởng Trung Tá Phạm đình San) đang tác xạ. Trung Tá San quả thật là một hạm trưởng gan lì và nhiệt huyết. Ông cho tàu tiến gần sát bờ đấu súng với T54. Nhưng chiến hạm bị bất lợi vì mục tiêu lồ lộ còn chúng núp vào khe núi bắn ra. Chúng tôi còn một bất lợi nữa là muốn tác xạ chính xác, chiến hạm phải luôn luôn di chuyển để giữ đúng hướng. Ngừng tại chổ, gió và sóng biển sẽ làm chiến hạm xoay, không thể bắn chính xác được. Còn tiếp tục chạy, đưa mủi tàu vào bờ, đến một lúc nào đó, phải quay ra, lại là mục tiêu cho địch bắn. Cho tàu chạy song song với bờ, cũng là mục tiêu tốt cho địch.
Chúng tôi chỉ có hai còn chúng vô số kể. Sau khoảng nửa tiếng giao tranh, HQ11 bị bắn trúng pháo tháp đại bác 40 ly và hầm máy. Một thượng sĩ đứt đầu chết taị chổ, vài thủy thủ bị thương nặng. Trong khi đó, một trung đoàn của sư đoàn 2 Bộ Binh án ngữ mủi Cà ná bị VC tràn ngập, các đơn vị của ta rút xuống biển. Dương vận hạm HQ503, Hạm Trưởng Trung Tá Nguyễn văn Lộc, có nhiệm vụ bốc các chiến sĩ của ta lên. Địch quân đặt đại bác trong khe núi bắn ra. Một viên trúng đài chỉ huy , hạm trưởng bị thương nơi đầu, bất tỉnh.
Chúng tôi được lịnh rút ra khơi. HQ11 về Sài Gỏn còn HQ231 đi Phan thiết. Trên đường đi, một máy bay thám thính không biết từ nơi đâu xà xuống trên đầu chiến hạm, lúc đó đang ở tình trạng ứng chiến. Thủy thủ chưa bao giờ đối phó với không chiến, có vẻ hoảng sợ. Tôi trấn an bằng cách truyền đạt cho thuỷ thủ đoàn biết: Can đảm chiến đấu thì có cơ hội sống còn và máy bay địch luôn luôn tìm cách bắn đài chỉ huy trước, nơi đó có hạm trưởng. Thủy thủ lên tinh thần. Máy bay đi một vòng xa, quay trở lại lượn trên đầu chúng tôi. Các khẩu pháo chỉa lên trời tua tủa. Máy bay vội vàng lảng xa. Sau đó mới biết là máy bay KQ/VNCH. Trong lúc hoảng loạn, truyền tin không liên lạc được với nhau nên tưởng lầm chúng tôi là Hải Quân Bắc Cộng.
Tàu về Phan Thiết vào buổi chiều, lại nhận lịnh pháo kích núi Tà Cú ở phía nam Phan Thiết. Có thể đây là điểm tập trung của Cộng Quân. Đo trên hải đồ, tầm xa khoàng 22.000 yards trong khi tầm bắn tối đa của đại bác 76.2 ly là 20.000 yards. Tôi báo cáo cấp trên. Lại nhận lịnh cứ thi hành. Chiến hạm phải tiến sát vào bờ biển để giảm khoảng cách càng nhiều càng tốt. Mệt mỏi vì pháo suốt đêm, tôi ngủ gà, ngủ gật trên đài chỉ huy. Sáng hôm sau bừng tỉnh dậy, một cảnh tượng thật huy hoàng , khoảng 30 chiến hạm HQ/VNCH, đủ mọi loại, đang chỉa mủi tàu vào bờ biển phía nam Phan Thiết, các khẩu đại bác với tư thế sẳn sàng nhả đạn. Cảnh tượng thật hùng vĩ giống như trận đổ bộ của Đồng Minh ở Normandie. Hào khí dâng lên trong lòng tôi. Đang ngất ngay với cảnh tượng đó thì nhận được lịnh về Vủng Tàu nhận tiếp tế nhiên liệu và đạn dược.
Buổi chiều về neo ở Vủng Tàu. Sáng hôm sau, một số đoàn viên lên bờ nghỉ xả hơi vì đi liên tục 20 ngày rồi. Vũng TÀu hơi lao xao, nhưng sinh hoạt vẫn bình thường. Tôi và một số sĩ quan vào ăn hủ tiếu ở bồn binh trước chợ, gần phòng thông tin. Khi xong tôi từ giả các sĩ quan để đi thăm một người bạn . Bước ra ngoài, có một người chận tôi lại. Anh ăn mặt tươm tất và trông phương phi. Anh nói :" Tôi muốn nói chuyện với hạm trưởng". Tôi ngạc nhiên, hỏi lại: "Làm sao ông biết tôi?". Anh chỉ vào huy hiệu hạm trưởng mà tôi đeo trên nắp túi áo bên trái. À ra thế, tôi cười cười với anh ta: "Như vậy là ông có nghiên cứu trước". Anh đưa tôi vào tiệm kem kế bên rồi đề cập thẳng: " Miền Nam sẽ mất , tôi là người Hoa Kiều buôn bán, tôi không thể sống dưới chế độ Cộng Sản. Tôi muốn đi Singapore. Ông có phương tiện. Tôi trả tiền ông mỗi đầu người 5 lượng vàng". Tôi lại cười cười hỏi: "Bao nhiêu người ?". Anh trả lời: "Khoảng 40 người, có thể hơn". Tôi nhẩm tính "200 lượng vàng". Lúc đó tôi không mường tượng được một lượng vàng ra làm sao. Tôi có bao giờ thấy nó đâu. Tính là tính vậy thôi. Tôi trả lời cho qua chuyện: "Ông ở chổ nào, cho tôi biết, tôi sẽ liên lạc sau". Anh đưa tôi một visiting card đề tên phía trước, mặt sau anh viết tay tên khách sạn và số phòng ở tại Vũng Tàu. Tôi từ biệt, anh bịn rịn, cứ nhắc: "Nhớ nghe ông hạm trưởng, nhớ nghe" . Nhưng tôi có nhớ gì đâu rồi quên hẳn đi.
Tôi đi Cát Lở, ghé Duyên Đoàn 32 thăm Thiếu Tá Nguyễn hữu Thiện CHT/DĐ. Ở đó bảo anh đi hành quân ở Bình Tuy rồi. Trong sân Duyên Đoàn 32, đặc nghẹt xe hơi dân sự, một vài thương gia Tàu đứng lấp lo. Tôi trở về tàu. Buổi chiều, tôi vận chuyển chiến hạm cặp vào HQ802 để nhận tiếp tế nhiên liệu và nước ngọt. Cảm thấy hoang mang và đơn độc, tôi ngồi lì trong phòng của chiến hạm. Một sĩ quan qua HQ802 chơi, về cho tôi biết Tổng Thống Thiệu nói chuyện trước Quốc Hội, trực tiếp truyền hình. Tôi trèo qua HQ802, đến phòng ăn sĩ quan đông nghẹt người, có một số đông đàn bà, con nít. Hình ành Tổng Thống Thiệu thấp thoáng, hình như ông ấy khóc. Tôi thẩn thờ, bao nhiêu biến cố dồn dập, Tôi không biết suy nghĩ gì chỉ cảm thấy đất nước đang lâm nguy.
Sáng hôm sau, HQ231 nhổ neo đi Căn Cứ Hải Quân Đồng Tâm trình diện BTL/ Lực Lượng Thủy Bộ cùng lúc với HQ228 đi Cần Thơ, BTL/V4SN, hạm trưởng Thiếu Tá Nguyễn hoàng Be. Gần đến Mỹ Tho, tôi nhận lịnh xuống cù lao An Long, Long Xuyên, biệt phái cho Bộ Chỉ Huy Liên Giang Đoàn ở đó, CHT là Thiếu Tá Nguyễn Thìn (nhạc sĩ TrườngSA). Tàu vừa neo, một chiếc LCVP chờ sẵn đón tôi qua Cơ Xưởng Hạm gần đó, CHT là Đại Úy Phạm văn Bảy. Anh có một bửa cơm nhỏ chờ tôi. Anh cho biết ở đây yên tĩnh, dân xung quanh theo đạo Hòa Hảo. VC không hoạt động được. Tôi cũng thấy thế, không khí thật an bình.
Sáng hôm sau, tôi gặp Thiếu Tá Thìn. Ông ngạc nhiên: "Không hiểu tại sao họ đưa ông xuống dưới nầy. Tình hình ở đây yên tĩnh lắm, đâu cần tàu ông". Tôi cũng thắc mắc tình trạng kỳ quái đó. Đang tham gia chiến trận khốc liệt ở miền Trung thì được lịnh về đây hưởng nhàn. Tình hình chiến sự và chính trị ở đất liền dồn dập hàng ngày. Tôi ở ngoài biển suốt gần một tháng đâu biết gì. Sẳn dịp, tôi nói với Thiếu Tá Thìn: "Nếu không cần đến chiến hạm, cho tôi về Sài Gòn một hai ngày xem sao". Thiếu Tá Thìn nói: " Ờ, ông đi đi. Tôi cấp cho ông một PCF (Duyên tốc đỉnh) đưa ông về Bắc Mỹ Thuận, từ đó ông đi đường bộ về Sài Gòn cho lẹ". Ông viết một bức thơ nhờ tôi đưa về gia đình.
Về tàu, tôi dặn Hạm Phó chăm sóc tàu và chọn một sĩ quan đi theo tôi để mang thơ từ của sĩ quan và đoàn viên về Sài Gòn. Tôi đặt chân về nhà xế chiều ngày 26/4, ăn một bửa cơm gia đình ấm áp. Sáng 27/4, tôi vào BTL/HQ thì gặp Thiếu Tá Toàn, hạm trưởng HQ605. Chúng tôi đi ăn sáng. Toàn ra vẽ thạo về chánh trị: " Sẽ có giải pháp chánh trị, mầy yên tâm về tàu đi". Tôi yên lòng, vui vẽ đi thăm người anh ruột làm việc ở sở Hàng Hà. Anh ngây thơ, hiền lành không có suy nghĩ gì chỉ biết làm việc thôi. Tình hình Sài Gòn rất lộn xộn, người nói nầy, kẻ nói khác. Không ai nghĩ rằng người Mỹ sẽ rút bỏ. Riêng tôi cứ cho là chánh phủ sẽ rút về Cần Thơ, tiếp tục đánh.
Sáng 28/4, tôi ra bến xe đò Phú Lâm để đi Long Xuyên. Bến xe đầy nghẹt người, không có chiếc nào khởi hành được vì cầu Bến Lức bị chận. Tôi trở về Sài Gòn, đến hãng HKVN gần chợ Bến Thành, xếp hàng mua vé đi Cần Thơ. Đến đúng phiên tôi lại hết vé, cô nữ tiếp viên nhã nhặn xin phép đóng cửa quày. Tôi lại trở ra Phú Lâm, cũng không có kết quả. Bỗng nhiên có người nói lớn: " Ngả Gò Công đi được". Tôi trở về, đến bến xe Gò Công ở Ngã Bảy. Người ta chạy tới, chạy lui nhộn nhịp. Tôi kiếm một quán nước ngồi xem tình hình. Bỗng có một anh chàng lái xe Honda, phía trước ôm một sac marin . Anh rồ ga ruùm...rùum...rùum , hất hàm hỏi tôi: "Anh đi Gò Công hả ?". Tôi gật đầu. Anh bảo: "Lên đây đi với tôi". Tôi phóng lên ngồi phía sau anh. Sau đó anh cho biết anh là nhân viên quân cảnh, rời đơn vị ở Tây Ninh về nhà ở Gò Công, đi một mình lạnh cẳng, anh rủ tôi đi cùng cho vui. Quốc lộ 4 vắng tanh, một vài chiếc xe đò bị giật mìn nằm dọc đường. Anh chàng lái bạt mạng, lạng qua bên nầy, lạng qua bên kia. Tôi ôm cứng eo ếch anh. Vậy mà cũng đến được bến phà Gò Công. Anh quân cảnh bỏ tôi ở đó. Tôi qua phà, đến Mỹ Tho trời chạng vạng tối.
Ngủ đêm tại Mỹ tho, 5 giờ sáng ngày 29/4, tôi lò mò ra bến xe. Hai bữa rồi không có chiếc nào chạy được, tài xế đói meo. Trời xui đất khiến thế nào, chiếc xe đò tôi mua vé, tài xế quyết định chạy. Quốc lộ 1 vắng tanh, không khí chiến tranh thấy rõ. Không một xe đạp, không một xe gắn máy, không một bóng người. Xe chạy được một đoạn đường lại ngừng, chờ xe đò đi ngược chiều, hỏi thăm có sao không rồi chạy tiếp. Đoạn đường qua Cai Lậy mới là hồi hộp. Hơi sương còn mờ mờ, xung quanh không một bóng người. Cuối cùng tới Bắc Mỹ Thuận, tôi thở phào một cái.
Qua Bắc, không khí khác hẳn, cảnh vật thật thanh bình, người dân hình như không biết đến chiến tranh là gì. Rồi đến Long Xuyên, rồi đến Tân Châu vào chiều tối. Tôi gặp Thiếu Tá Ngô như Chương, CHT Giang Đoàn Tuần Thám đóng tại đây. Tôi và anh nói chuyện tới 10 giờ khuya rồi anh đưa tôi về tàu tôi. Bước lên tàu, sĩ quan trực đưa mấy công điện "hỏa tốc", là độ khẩn cao nhứt, ra lịnh chiến hạm nhổ neo về Đồng Tâm, Mỹ Tho. Công điện cuối cùng ra lịnh thi hành ngay và báo cáo. Điểm danh nhân viên thiếu Hạm Phó, một sĩ quan và vài thủy thủ. Tôi không muốn bỏ rơi một ai. Tôi hỏi các sĩ quan biết Hạm Phó và các thuỷ thủ ở đâu không? Nếu biết thì cho tiểu đỉnh vào bờ gọi về. Không ai biết gì cả. Không thể đợi đến sáng mai. Tôi quyết định nhổ neo vì nếu chậm trể trong khi Căn Cứ Đồng Tâm bị tấn công thì sao ? Cứu binh còn hơn chửa lửa. Vả lại, tôi nghĩ, những người vắng mặt, ngày mai có thể liên lạc với Cơ Xưởng Hạm tìm biết vị trí của chiến hạm để tìm đường về, nếu họ muốn.
Tàu giang hành ban đêm, tôi thức suốt đêm trên đài chỉ huy. Vào khoảng 2 giờ sáng, gặp một đoàn công voa của Quân vận đi ngược chiều, dài mấy cây số. Đi sát gần bên, tôi hỏi lớn: "Từ đâu đến, đi về đâu". Họ trả lời: "Từ Sài Gòn, đi Cần Thơ". Tôi lại đinh ninh là chánh phủ sẽ di chuyển về Cần Thơ. Tự suy diển để an tâm chiến đấu .
Sáu giờ sáng, tàu đến Đồng Tâm. Căn cứ Hải Quân Đồng Tâm đồn trú bên một cái hồ rất lớn, thông ra dòng sông cái. Tôi chuẩn bị quẹo tàu vào thì ở trong ùa ra hàng trăm tiểu đỉnh đủ mọi loại: thủy bộ, ngăn chận, LCVP ..., giống như một đàn cá tuồn qua một cổ chai. Không phải một cuộc di chuyển bình thường mà một cuộc tháo chạy. Tôi ngạc nhiên quá, cho tàu ngưng máy và thả trôi lềnh bềnh. Một chiếc tiểu đỉnh cặp vào tàu, một viên trung úy đến chào tôi: "Trong căn cứ không còn ai. Một thiếu tá trở cờ, đang khống chế căn cứ . Họ sẽ kêu hạm trưởng vào để bắt giữ chiến hạm . Hạm Trưởng ở đây thâm niên nhứt. Chúng tôi đặt dưới quyền chỉ huy của Hạm Trưởng ".
Tôi mất bình tỉnh, không ngờ sự việc xảy ra diển tiến như vậy. Giải quyết làm sao đây? Tôi bảo ông Trung Úy: "Ông ra lịnh các tiểu đỉnh uỉ bãi vào cù lao chờ đó" . Ở đây cần nhấn mạnh đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Hải Quân, đặc biệt các thủy thủ đồn trú ở CCHQ/ĐT, là bằng chứng hùng hồn lòng kiên cường của binh sĩ VNCH. Mặc dầu biết các cấp chỉ huy đã bỏ nhiệm sở, những người lính ở cấp thấp nhứt vẫn tiếp tục can trường cầm súng chiến đấu. Ai bảo QL/VNCH hèn nhát?
Tôi bảo phòng vô tuyến liên lạc với BTL Hạm Đội . Phòng vô tuyến trả lời, tất cả đều đổi tần số, không liên lạc được. BTL/HĐ là nơi chính gốc của tôi, BTL/LLTB là nơi biệt phái. Một nơi không liên lạc được, một nơi bị khống chế. Làm sao đây? Vào lúc đó, CCHQ/ĐT gọi qua máy âm thọai PRC25: "Yêu cầu HQ231 vào cặp cầu căn cứ để nhận tiếp tế và nhận chỉ thị". Tôi cầm ống liên hợp, hỏi lại: "Cho tôi nói chuyện với ông số 1". Tiếng trên máy trả lời: "Ông số 1 đi họp với sư đoàn 7 rồi". Tôi hỏi tiếp: "Ông số 2 đâu?". Trả lời: "Ông số 2 cũng đi rồi". Tôi hỏi dồn, còn ông số 3. Tiếng trên máy trả lời là không có luôn. Tôi hỏi là để trắc nghiệm thôi, như vậy là quá rỏ ràng, họ muốn bắt giữ HQ231. Tôi gằn giọng trên máy: "Anh là ai, anh không có thẩm quyền chỉ huy tôi". Tiếng trên máy đổi giọng, đe dọa: "Anh không tuân lịnh, tôi kêu mấy con chuồn chuồn bắn anh". Tôi biết tỏng tòng tong là hắn hù tôi. Trên trời có mấy chiếc trực thăng, nhưng họ cũng lo bấn xúc xích, hơi đâu mà đi bắn đơn vị bạn. Tôi cười thành tiếng trên máy: "Anh lòi đuôi anh ra rồi, anh không phải là sĩ quan Hải Quân chính cống, không biết một tí gì về Hải Quân. Anh không biết hỏa lực con cá của tôi mạnh đến mức nào. Hai con chuồn chuồn không ăn thua gì đâu. Anh phải kêu 10 con chuồn chuồn mới hạ được tôi".
Tiếng máy im bặt, hình như hắn bối rối. Tôi nạp thêm: "Anh cho tôi biết ý định của anh đi, nếu anh còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẳn sàng yểm trợ anh. Còn không, anh đừng gọi tôi". Đến phiên tôi, tôi bối rối khủng khiếp. Bây giờ làm sao đây? Tôi cảm thấy như rơi xuống một vực thẳm tối om, có một lực nào đó lôi tôi tuồn tuột xuống, không bám víu vào đâu được. Các tiểu đỉnh bơ vơ còn bám lấy tôi, còn tôi bơ vơ, tôi bám vào đâu?.
Chiến hạm vẫn chạy tới, chạy lui trước Mỹ Tho và Căn Cứ Đồng Tâm. Một thủy thủ mang một radio lên đài chỉ huy, mở lớn cho tôi nghe. Tiếng Tổng Thống Dương văn Minh làm nghẹn lòng người: "Yêu cầu QL/VNCH buông súng, ngừng chiến đấu, ai ở đâu thì ở đó". Lời nói của Tổng Thống Minh như muôn ngàn mủi tên cắm vào thân thể tôi. Tôi như Từ Hải chết ngoài trận tiền. Một làn khí lạnh chạy suốt xương sống. Mồ hôi đổ ra đẵm ướt đầy mình. Tôi ngồi bất động không biết bao nhiêu lâu, có thể là 5 phút, có thể là 10 phút, mà cũng có thể hơn. Hoàn hồn lại, tôi nghĩ ngay là phải cứu con tàu. Biết đâu được, còn một lực lượng nào còn chiến đấu thì sao?. Sực nhớ tới hàng trăm tiểu đĩnh ở cù lao, nhưng Tổng Thống Minh tuyên bố đầu hàng rồi, tôi không còn trách nhiệm nữa. Còn sanh mạng họ? Tôi không thể tập họp hỏi ai đi, ai ở. Vì như vậy Cộng Quân đủ thời giờ phong tỏa một khúc sông nào đó trên đường tàu ra cửa biển.
Tôi quyết định quay tàu ra cửa biển. Hai máy tiến full, động cơ nổ ầm ầm, nước rẽ sóng hai bên mũi tàu trắng xóa. Tàu đang ở nhiệm sở tác chiến, khi nghe Tổng Thống Minh tuyên bố đầu hàng, thủy thủ đoàn tự động tan hàng. Họ đứng tụm năm, tụm ba bàn tán, có người mang hành lý ra sân tàu. Tôi biết tình hình bất ổn, không khéo có nổi loạn. Cuối cùng việc gì đến, sẽ đến. Họ cử Thiếu Úy Long lên nói chuyện với tôi. Ông đứng dưới cầu thang nói vọng lên đài chỉ huy, giọng to tiếng hơn ngày thường: "Hạm Trưởng, quay tàu về Mỹ Tho cho tụi tôi lên bờ". Nghĩ cho cùng, cách cư xử và lời nói của Thiếu Úy Long hoàn toàn đúng. Quân đội tan hàng rồi, thủy thủ có quyền đòi hỏi trở về với gia đình. Mục đích của tôi là muốn gìn giữ con tàu. Nếu tàu cặp bến Mỹ Tho, thủy thủ rời tàu, HQ231 sẽ là đống sắt vụn. Mục đích thứ hai là tôi thầm mong được tiếp tục chiến đấu, dại gì nộp con tàu cho kẻ địch. Làm theo lời thiếu uý Long là không được mà cứng rắn với thủy thủ đoàn lại càng không xong. Phải dùng tình cảm thôi. Tôi nghiêm sắc mặt nói với thiếu uý Long: "Mặc dù chúng ta ở tình hình như thế nầy, nhưng truyền thống của sĩ quan Hải Quân, một sĩ quan đàn em nói với đàn anh như vậy sao?". Bình thường, thiếu uý Long là một sĩ quan năng nổ, làm việc chăm chỉ và rất kỷ luật. Ông đã trui rèn hai năm ở quân trường, thấm nhuần truyền thống của Hải Quân, vì vậy ông thấm ý lời tôi nói. Ông đứng im. Tôi nói tiếp: "Thôi tập họp nhân viên cho tôi nói chuyện".
Quân số thủy thủ đoàn gồm 80 người, đi phép và vắng mặt còn lại vào khoảng 60. Họ đứng im phăng phắt, gương mặt rất nghiêm trọng. Chỉ còn mình tôi là còn mặc áo giáp, đội nón sắt. Bỗng nhiên hôm đó tôi nói chuyện rất hùng hồn. Đại khái: "Mọi người thấy rõ, tôi làm việc cho con tàu , cho Hải Quân , cho Quân Đội. Thủy thủ đoàn ở dưới tàu được chăm sóc đầy đủ quyền lợi. Các anh được tuần tự đi phép, kể cả các sĩ quan và Hạm Phó, còn tôi thì không. Tôi luôn luôn nghĩ đến chiến hạm. Tôi quyết định đi ra biển có 2 lý do. Thứ nhứt là gìn giữ con tàu. Quay trở lại cặp bến, người ta sẽ phá nát con tàu. Đây là tài sản của quốc gia. Thứ hai là bảo vệ sinh mạng của các anh. Mặc dù quân đội tan hàng rồi, tôi vẫn còn trách nhiệm. Trong lúc tranh sáng, tranh tối các anh lên bờ có thể bị giết. Tôi hứa với các anh là, khi ra biển rồi, tình hình bình yên, ai muốn về, tôi cho về. Phương tiện ghe đánh cá nhiều lắm. Tôi hứa".
Tôi biết phần đông các cuộc nổi loạn trên tàu là do hạm trưởng hoặc thuyền trưởng o ép quá đáng. Tôi muốn làm cho rõ trắng đen để mọi người đều hả dạ. Nhưng để lái theo ý mình phải khôn khéo một tí xíu cộng thêm một tí tình cảm. Tôi quyết định trưng cầu dân ý. Tôi nói: " Bây giờ, tôi lấy ý kiến các anh, bên nào đa số tôi làm theo. Tôi đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhứt, ai muốn quay lại Mỹ Tho lên bờ. Thứ nhì, ai theo tôi ra biển rồi ai muốn về thì về". Tôi biết cái gì đưa ra đầu tiên, người ta bỡ ngỡ, ngập ngừng, ngại quyết định. Tôi nắm tâm lý đó. Vả lại ý kiến thứ hai hấp dẫn hơn, đi thì cứ đi rồi sau đó muốn về thì về. Tôi biết chắc là tôi sẽ thắng.
Để chắc ăn, tôi nêu câu thứ nhứt trước: "Ai muốn quay tàu lại Mỹ Tho". Không ai đưa tay lên. Tôi chậm rãi lặp lại lần thứ nhì rồi lần thứ ba. Không có người nào đưa tay. Tôi mừng thầm trong bụng vì biết mình thắng rồi. Tôi nói tiếp: "Bây giờ, tôi sang câu thứ hai, ai theo tôi ra biển rồi muốn về thì về". Một người đưa tay lên, rồi hai người, rồi ba người rồi cả tàu. Một chiến thắng tuyệt đối. Cần nhấn mạnh ở đây là không có "cò mồi" . Tôi vẫn trầm tĩnh nhẹ nhàng: "Như vậy là các anh đồng ý với tôi hết rồi, phải không? Các anh tiếp tục làm việc. Nhớ là ai muốn vào bờ, cứ gặp tôi. Thôi tan hàng". Mọi người vui vẽ mà tôi không bận tâm nữa.
Chiến hạm ra cửa biển bằng cửa Tiểu vào buổi chiều. Nhạc sĩ Trường Sa bập bồng trên một chiếc WPB, tuần duyên đỉnh. Ông gọi tôi , tôi ngừng lại để ông lên tàu. Tối hôm đó, bắt được tần số của Hạm Đội cho biết tất cả tàu tập trung tại Côn Sơn. Trên đường đi, tôi gặp HQ229, Hạm Trưởng Thiếu Tá Vương thế Tuấn, cũng lạc loài bơ vơ như tôi. Đi ngang qua cửa Định An, có hai chiếc LCM tôi không để ý vì ruột gan bời bời. Đi qua một khoảng khá xa, sĩ quan trực phiên gọi tôi. Tôi ngoáy cổ nhìn lại, một cảnh tượng quá bất nhẫn mà tôi không đành lòng. Đàn bà và con nít quỳ trên tàu, lạy như tế sao vào hướng chúng tôi. Hóa ra 2 chiếc LCM chết máy ngoài biển . Chúng tôi quay lại cứu vào khoảng 200 người. HQ231 đến Côn Sơn rồi theo đoàn tàu qua Subic.
Đến Subic, tôi là người cuối cùng rời tàu. Một viên Đại Úy Bộ Binh, trong ̣đám người di tản trên chiếc LCM, cố chờ tôi trên bờ, đến bắt tay tôi:" Tôi di tản từ miền Trung về, chưa thấy tàu nào có kỷ luật như tàu của ông". Tôi cầm tay ông siết nhè nhẹ, thẩn thờ không nói được lời nào. Tôi muốn chia xẻ tình chiến hữu với ông, nhưng trong lòng trăm mối ngổn ngang. Tình nước, tình nhà còn đó. Rồi từ đây phải bỏ lại tất cả sau lưng. Bỏ lại quê hương yêu dấu, bỏ lại Hải Quân, bỏ lại biển xanh lồng lộng, bỏ lại Mẹ Già, bỏ lại con tàu thân yêu.
NGUYỄN VĂN PHƯỚC
Mến tặng tất cả các bạn trong thủy thủ đoàn HQ231. Chúng ta đã cùng chiến đấu và đã cùng trải qua những giờ phút cuối cùng bi thảm nhứt của đất nước .