Đầu thế kỷ 21, chuyện lạ đã xảy ra ở Mỹ một nước tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và y khoa nhất thế giới. Bệnh Sởi (Measle) đã lan ra với 764 trường hợp tính từ ngày 3/5/19 theo thống kê cơ quan CDC, trên 23 tiểu bang. Một trong những lý do chính là vì cha mẹ chống thuốc chính ngừa không nghĩ là thuốc an toàn.
Từ năm 2000, cơ quan CDC đã tuyên bố bệnh sởi đã bị trừ diệt nay một bệnh rất truyền nhiễm trở lại. Vi khuẩn lây qua đường hô hấp, đa số ở trẻ em nhưng người lớn cũng có thể bị nhiễm bệnh. Khoa học và chính trị trong thời đại này lẫn lộn. Một trong những tiếng nói nổi tiềng là ông Robert F. Kennedy Jr, cháu của cố T. T. John F. Kennedy. Năm 1962 T. T. Kennedy đã cổ động chích ngừa cho trẻ em qua chương trình y tế công cộng, chương trình đầu tiên của nước Mỹ, nay ông cháu lại kêu gọi cha mẹ không nên cho con chích ngừa, loan tin thất thiệt trước các trường hợp bệnh lan tràn ở tiểu bang Massachussetts và Disneyland nơi đông trẻ em đến chơi là thuốc chích ngừa bệnh sởi, ban đỏ, quai bị (MMR) có chất Thimerosal gây ra bệnh tự kỷ trẻ em (Autism).
Phong trào chống chích ngừa ở Mỹ đã gây ngạc nhiên lớn. Trước thời kỳ y tế công cộng hay y tế công cộng ở các nước kém mở mang số trẻ em chết vì bệnh nhiễm trùng cao. Y tế công cộng với các biện pháp nước uống sạch, thuốc sát trùng và gia tăng mức chích ngừa đã giúp tuổi thọ của con người cao hơn trước nay cha mẹ lại xem chích ngừa là biện pháp trái tự nhiên và nguy hiểm cho trẻ em !
Năm năm trước, cuộc thăm dò lớn ở Mỹ năm 2014 cho thấy 80% cha mẹ tin trẻ em phải được chích ngừa nhất là trước khi đi học, nếu trên 25% trẻ em trong trường không chích ngừa 74% phụ huynh sẽ đem con em họ đi đến trường khác.
GS Michael Kinch chuyên gia về miễn nhiễm học và sinh học kể lại chuyện dịch đậu mùa (Small pox) để nhắc là con người hay quên. Lịch sử chích ngừa và chủng ngừa là lịch sử thú vị về hệ thống miễn nhiễm của con người. Trung bình một người có 40 ngàn tỷ con vi trùng sống ngoài da, trong bộ tiêu hóa, trong đường hô hấp. Các con vi trùng tốt này bắt đầu di chuyển sau khi con người sanh ra, chúng giúp con người chống lại các con vi trùng độc. Giống như thế giới loài người lúc nào cũng có chiến tranh giữa “Thiện và Ác”!
Hiểu biết về vi trùng giúp các bác sĩ và các nhà khoa học chống lại bệnh nhiễm trùng. Các khoa học gia từ thế kỷ thứ 19 đã có công nghiên cứu về vi trùng và bệnh truyền nhiễm, bốn người có công lớn nhất cho nhân loại: nhà bác học Koch khám phá vi trùng lao, BS Virchow nghiên cứu về tế bào, là cha đẻ nghành bệnh lý ông là người Đức được gắn biệt hiệu là “Giáo hoàng y học”, BS Semmelweis người Hung Gia Lợi tiên phong về vấn đề khử trùng và yều cầu các bác sĩ phải rửa tay trước khi khám bệnh nhất là với các sản phủ và BS Louis Pasteur nhà vi trùng học người Pháp. Sự hiểu biết của 4 vị đã cứu sống hàng trăm triệu người. Sau đó đến BS Alexander Flemming khám phá ra thuốc trụ sinh Penicillin một bước tiến lớn trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng.
Đầu tiên là phương pháp phòng ngừa bệnh đậu mùa (Small pox) tiếng La Tinh Variola) danh từ chủng ngừa (vaccination) có nghĩa là từ con bò. Bác sĩ lấy dao rạch một vết nhỏ từ bọc mụt của con bò bị bệnh đậu bò (cowpox) một bệnh truyền từ thú vật qua người do loại vi khuẩn tương tự vi khuẩn đậu mùa. Phương pháp có hiệu quả. Bệnh đậu mùa là bệnh dịch nặng giết người, truyền qua người qua con bọ súc loài gặm nhấm (Rodent). Dịch đã xuất hiện đầu tiên từ 48 đến 16 ngàn năm trước Tây lịch, vi khuẩn đã được tìm thấy trong xác ướp của Vua Ai Cập Ramses V (thế kỷ 12 trước Tây lịch). Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy vi khuẩn đậu mùa khi đào các xác chết ở vùng thung lũng Ấn. Thế kỷ 15, người Âu mang bệnh qua Mỹ Châu, bệnh dịch gây tử vong cao, chỉ có 5 đến 10% dân Da Đỏ sống sót sau trận dịch. Ở Trung Hoa năm 1000, mụt bọc đậu mùa được nghiền thành bột xịt vào lổ mũi. Phương pháp này có nhiều rủi ro gây bệnh nhiều hơn là ngừa bệnh. Sau này người Trung Hoa theo phương pháp chủng ngừa của người Anh và Mỹ.
Năm 1715 bà Montagu vợ ông đại sứ Anh ở Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày trước) quan sát phương pháp chủng ngừa của người Thổ, lấy mủ từ bọc bệnh đậu mùa của người chích vào dưới da người khỏe mạnh sau khi chích cho con, bà nhờ bác sĩ Charles Maitland học phương pháp này đem về Anh. Bên kia bờ Đại Tây Dương, ở Boston Tu sĩ Anh giáo Cotton Mather học chủng ngừa từ người nô lệ Onesimus, anh này đã biết các chủng ngừa đậu mùa từ nhỏ cha truyền con nối. Ông Mather sau đó qua bác sĩ ở Boston chích cho 280 người kết quả mỹ mãn trong 280 người chỉ có 6 người bị bệnh chết.
Ở Anh, dân quê cũng để ý thấy những người vắt sữa bò ít khi bị bệnh đậu mùa và họ săn sóc những người bị bệnh đậu mùa mà không sợ bị bệnh. Tiếp xúc với bệnh đậu ở loài bò đã cho những người vắt sữa bò có miễn nhiễm với bệnh đậu mùa ở loài người. Khi dịch đậu mùa xảy ra vào cuối thế kỷ 18, một dân làng Dorset, Benjamin Jetsy nảy ra ý kiến là gây bệnh đậu bò cho gia đình bằng cách chích mủ vào người để ngừa bệnh.
BS Edward Jenner được xem là người phát minh thuốc chủng đậu, thật ra ông đã giành hết công trạng của anh nhà quê Jetsy. Ông dùng vảy mủ từ người bệnh thay vì từ con bò bệnh. Được trợ cấp của Hội Y Sĩ Hoàng Gia Anh ông phát động phong trào chủng ngừa khắp nước Anh, qua Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ. T. T. Jefferson chích ngừa cho các nô lệ của ông (trước khi chích cho gia đình ông!)
BS Jenner được huân chương Hoàng Đế Napoleon và được xem là “Đại ân nhân của nhân loại”.
Bệnh đậu mùa sau đó bị tuyệt trừ trong hơn 150 năm sau khi thuốc chủng được chích cho tất cả trẻ. Người cuối cùng bị bệnh đậu mùa là anh đầu bếp người Somali tên Ali Maow Maalin, bị bệnh năm 1977, chạy trốn bị truy lùng như tên tội phạm. Anh đầu bếp nấu bếp ở bệnh viện bị bắt anh nói với nhà báo Boston Globe là “tôi sợ chích đau lắm!”. May mà Maalin chỉ bị đậu mùa hình thức nhẹ. Nhờ chích ngừa cho nhân viên, hàng xóm mà nạn dịch đậu mùa không xảy ra. Khi lành bệnh từ một người sợ chích đau lắm trở thành cổ động viên cho chương trình y tế công cộng của cơ quan y tế WHO Liên Hiệp Quốc về chương trình phòng ngừa bệnh sốt tê liệt. Câu nó của anh với phụ huynh học sinh “đừng trốn chích ngừa, chich ngừa quan trọng, xem gương của tôi, đừng làm những chuyện điên rồ”.
Chủng ngừa như vậy là phương pháp tự nhiên để kích thích hệ thống miễn nhiễm, một phương pháp theo thiên nhiên giống như nguồn gốc chữ “Innoculate” (chủng ngừa) từ công việc chăm sóc vườn tược, ghép chồi vào cây đào giúp cây đâm chồi nảy lộc. Nhưng giống như bất cứ phương pháp khoa học nào khi mới được áp dụng cũng bị nghi ngờ và chống đối. Không tin vào thuốc chích ngừa đã xảy ra ngay sau khi BS Edward Jenner bắt đầu phát động phong trào chích ngừa. Tu sĩ Cotton Mather bị chính giáo dân Boston chống, họ cho là con người đã đi trái luật trời, con người sinh ra phải bị bệnh, phải trả tội lỗi trên trần gian, dân ném bom vào nhà với tờ giấy đính kèm “Cotton Mather, đồ chó, tao sẽ cấy bệnh đậu mùa vào mày với trái bom này!”.
Thời gian đã cho thấy, sau các biện pháp y tế công cộng, các thuốc chích ngừa đã cứu sống trẻ em và người lớn, các bệnh bạch hầu, dịch tả, ho gà, uốn ván, chó dại không xảy ra nếu được chích ngừa. Ở Mỹ gần đây ngoài bệnh sởi, bệnh ho gà cũng xuất hiện vì số trẻ em chích ngừa giảm. Ở Nhật nội một năm 1947 có 20 ngàn trẻ em chết vì ho gà, đến năm 1972 nhờ thuốc chích ngừa không còn tử vong. Mùa đông năm 1974-1975 có hai trẻ chết sau khi chích ngừa, cha mẹ sợ không cho con chích ngừa vì vậy đến cuối thập niên 1970 bệnh go gà trở lại giết hơn 40 trẻ mỗi năm. Ở Mỹ những trường hợp phản ứng vì thuốc chích ngừa vào đầu thập niên 1980 đã đưa đến dịch vụ thưa kiện lớn cho các tổ hợp luật sư. Bị thưa các hãng thuốc dần dần ngưng chế thuốc. Năm 1986, T. T. Ronald Reagan ký đạo luật bảo vệ các hãng chế tạo thuốc chích ngừa cho trẻ em để bớt thưa kiện, các hãng thuốc chế tạo lại thuốc chích ngừa nhưng đạo luật lại có kết quả ngược, cha mẹ nghĩ các hãng thuốc lớn và chính quyền cố tình dấu giếm tai hại của thuốc chủng ngừa nên số trẻ không được chích ngừa tăng cao dẫn đến cuộc thảo luận năm 2011 trên báo dược khoa. “có lẻ thuốc chích ngừa MMR (sởi, quai bị, ban đỏ) là trò lừa đảo của y khoa trong vòng 100 năm qua. Dân không tin vào các đại công ty Mỹ và trách nhiệm cộng đồng giảm.
BS người Anh Andrew Wakefield châm dầu vào lửa bằng cách viết bài trên báo Lancet năm 1998 cho rằng thuốc ngừa MMR gây bệnh tự kỷ trẻ em. Tờ Lancet sau đó rút bài báo thiếu căn bản y khoa xuống nhưng đã trể. Trong vòng 150 năm trước khi có thuốc ngừa MMR, bệnh sởi đã giết 200 triệu trẻ em. Thuốc MMR đã giảm số bệnh 99.99% và giảm 100 % tử vong. Vì bác sĩ Wakefield, từ năm 1998 đến năm 2000 đã có đến hơn 100 bệnh nhân nhập viện và 3 trẻ em chết nội trong nước Ireland (Băng Đảo). Sau này được biết BS Wakefield đã ăn chia với tổ hợp luật sư Richard Barr.
Phản ứng phụ với thuốc chủng ngừa hiếm nhưng tác dụng tâm lý mạnh chỉ cần một vài em bé bị phản ứng thuốc là quần chúng mất tin tưởng. Năm 1954, hãng Cutter ở California đã chế tạo thuốc ngừa sốt xuất huyết với vi khuẩn không được bất hoạt động đúng cách. Hơn 100 ngàn liều thuốc đã được chế tạo gây bệnh cho 192 trẻ em và 10 trẻ chết. Sợ đã khiến cha mẹ không đến văn phòng bác sĩ gây ra 28,000 trường hợp sốt tê liệt trong năm 1995.
Phương pháp chế tạo thuốc chích ngừa đã là một động cơ gây ra phong trào chống đối. Vi khuẩn không sống ngoài tế bào, phòng thí nghiệm phải dùng hàng tỷ tế bào để nuôi vi khuẩn. Trong những năm đầu các tế bào thận khỉ được dùng vì trong tế bào khỉ vi khuẩn sinh sôi 10 lần hơn là trong tế bào người.
Nhưng người và khỉ vẫn là hai sinh vật khác nhau, vi khuẩn hoạt động, hành xử trong tế bào khỉ khác với trong tế bào người tương tự như con người ở trong xã hội nước này không giống như công dân ở nước khác vì những điều kiện sống khác nhau. Dùng vi khuẩn sinh sôi trong tế bào khỉ lại có một nguy hiểm là vi khuẩn khỉ có thể truyền qua người.
Nhà sinh học Leonard Hayflick dùng tế bào người để cấy vi khuẩn thuốc chủng ngừa, dùng vi khuẩn cấy tế bào người WI-38 được sáng chế trong thập niên 1950 hợp với đạo đức y học (W.I. viết tắt học viện Wistar Institute ở Pennsylvania).
Năm 1972, BS Forest Stevenson viết báo tuyên truyền là công cuộc nghiên cứu thuốc của Hayflick dùng tế bào trẻ em từ các sản phụ phá thai so sánh Hayflick như tên cộng sản và Hitler. BS Stevenson bị Hayflick dọa thưa nhưng tin đồn láo đã lan truyền. Năm 2003, toà thánh Vatican được nhóm chống chích ngừa yêu cầu cho ý kiến về đạo đức của vấn đề thuốc chích ngừa dùng tế bào WI-38. Hai năm sau phán quyết của Đức Giáo Hoàng ưng thuận cho xử dụng nếu không có thuốc nào khác.
Năm 2015 sau khi bệnh sởi lan ra ở Disneyland, nhóm chống thuốc chủng ngừa lại yêu cầu tòa thánh Vatican ra thông cáo trên báo chí “Đổ tội cho công ty thuốc Merck, đừng đổ tội cho cha mẹ!” Tôn giáo lẫn lộn vào y học, thành phần chống đối lợi dụng tôn giáo làm vũ khí khích động. Năm nay ngoài Công Giáo, nhóm chống đối còn nhắm vào Do Thái Chính Thống Giáo. Truyền đơn phát ra nhắm đến các đền thờ Do Thái đưa tin thất thiệt thuốc chích ngừa có “DNA của khỉ, chuột và heo cũng như là máu bò”. Các trường hợp bệnh sởi lan nhanh khắp thành phố Nữu Ước nơi có nhiều dân Do Thái khiến thị trưởng Bill de Blasio phải ra lệnh chích ngừa bệnh sởi nếu ai chưa được chích từ trước nếu không sẽ bị phạt sau đó đến các tiểu bang Maine, New York và Washington.
Các bác sĩ phòng cấp cứu mấy năm gần đây phải đối phó với các trẻ em bị sốt, nổi mận đỏ khắp người, mắt đỏ, hạch cổ, hạch nách, những triệu chứng cổ điển của bệnh sởi. Bệnh có biến chứng trầm trọng là viêm phổi tỷ lệ một trong 20 ca, 1 trong 1000 ca bị viêm óc, tử vong 1 trong 500 ca.
Bệnh xảy ra vì trẻ em không được chích ngừa, cha mẹ không cho con chích ngừa nhưng lại nói láo. Nhà xã hội học Jennifer Reich cho biết cha mẹ nói láo tự cho mình có quyền lựa chọn trong vấn đề sức khỏe nhưng không giám nói sự thật! Các bà mẹ khác lại cho là y học hiện đại tiến bộ với phòng săn sóc đặc biệt tất cả bệnh nặng đều chữa được: “Nếu cần thì đặt ống thở cho trẻ thở đâu cần phải chích ngừa!” Một bà mẹ cho biết chỉ chích ngừa phong đòn gánh cho em vì y khoa hiện đại chưa chữa được phong đòn gánh còn ho gà không cần chích ngừa vì ho gà làm sưng phổi chỉ cần chích trụ sinh và đưa vào phòng săn sóc đặc biệt nằm máy thở!
Một sự kiện lạ năm nay là các bà mẹ có trình độ giáo dục cao, lập gia đình trể, không muốn có thai sớm sau khi lập gia đình lại không cho con chích ngừa vì tự tin mình thành thạo trong vấn đề săn sóc con cái. Mặc khác phái tự chăm lo sức khỏe (Healthism) cho rằng ăn uống đúng, ăn ở vệ sinh, tập thể dục có thể chống và ngừa bệnh tật kể cả bệnh truyền nhiễm nên không đi bác sĩ, không chịu chích ngừa.
Trong giới bác sĩ có BS Bob Sears ở California năm 2008 chủ trương chỉ cần chích ngừa một phần đã bị cơ quan CDC cảnh cáo.
Chích ngừa đã có hiệu lực được công nhận, đã cứu hàng triệu người mỗi năm trên thế giới. Các bác sĩ không chích ngừa cho trẻ em và người lớn có thể bị thưa hành nghề bất cẩn và bị hội đồng y khoa khiển trách. Cha mẹ không chích ngừa cho con chỉ bị xem là thiếu trách nhiệm ngoại trừ luật các tiểu bang Maine, Washington và New York đã giới hạn quyền cha mẹ. Nói chung giới phụ huynh ở Mỹ đã luôn luôn có trách nhiệm với con cái, tỷ lệ chích ngừa tùy theo tiểu bang nhưng ở mức độ cao từ 85.8% ở Missouri đến 98.3% ở Massachussetts.
Việt Nguyên
12/5/2019