26 tháng 11 2019
Nghiên cứu của một nhóm nhà khoa học Mỹ được báo chí quốc tế đăng tải nêu khả năng ra nhiều thành phố của Việt Nam có nguy cơ chìm dưới nước biển năm 2050.
Bài báo trên New York Times” mới đây cho hay nghiên cứu của một nhóm nhà khoc học thuộc Climate Central, có trụ sở tại New Jersey, Hoa Kỳ, chỉ ra rằng 10% dân số Việt Nam có nguy cơ ảnh hưởng nặng do nước biển dâng. Đặc biệt, miền nam Việt Nam có nguy cơ biến mất hoàn toàn vào năm 2050.
Ngay sau đó đã có một số tiếng nói từ Việt Nam bình luận về số liệu mà Climate Central sử dụng trong dự báo.
Chẳng hạn, ý kiến của ông Đàm Quang Minh, hiệu trưởng trường Phú Xuân, Huế trên Vietnamnet cho rằng mô hình mà Climate Central sử dụng nếu dùng để tính cho khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ thì cũng có kết quả tương tự. Nghĩa là cả Bắc Trung Nam của Việt Nam đều có nguy cơ bị biển nuốt chửng, chứ không chỉ riêng Nam Bộ như New York Times đưa tin.
'Phòng thủ, thích nghi hoặc rút lui'
Từ phía tác giả của báo cáo, các nhà khoa học từ Climate Central cho hay nghiên cứu của họ mang tính toàn cầu và muốn nêu cảnh báo mang tầm vĩ mô nhằm khích lệ các quốc gia có giải pháp phòng ngừa.
"Có ba chiến lược cơ bản để thích ứng với nước biển dâng, gồm phòng thủ, thích nghi hoặc rút lui," Tiến sĩ Benjamin Strauss nói với BBC News Tiếng Việt từ Hoa Kỳ, về cách chính phủ Việt Nam có thể đối phó với thảm họa.
Tiến sĩ Benjamin Strauss hiện là Giám đốc điều hành và Trướng nhóm nghiên cứu của Climate Central - nơi vừa công bố nghiên cứu mới cho thấy nhiều vùng của Việt Nam có nguy cơ chìm trong nước trong khoảng 30 năm nữa.
Ông nhấn mạnh rằng nghiên cứu mới công bố là "nỗ lực mới nhất" của các nhà khoa học "để cải thiện các dữ liệu hiện có", "nhưng chưa phải kết luận cuối cùng và vẫn có các sai sót".
Trên cơ sở đó, chính phủ các nước, trong đó có Việt Nam, có thể tự thu thập các dữ liệu chất lượng cao ở những khu vực ven biển hoặc chí ít là ở các vùng mà các nhà khoa học Mỹ đã chỉ ra là bị đe dọa nhất, theo ông Benjamin Strauss.
"Sau đó, có thể sử dụng các dữ liệu đó để khẳng định kết quả phân tích cuả chúng tôi, hoặc để chỉ ra rằng tình hình thực ra tốt hơn, hay tệ hơn thế," ông Benjamin Strauss nói.
"Giả sử rằng các dữ liệu đo đạc kỹ hơn cho thấy có mối đe dọa ngắn hạn và nghiêm trọng ở một số khu vực, thì có ba chiến lược cơ bản để thích ứng với nước biển dâng: phòng thủ, thích nghi hoặc rút lui. Phân tích toàn cầu của chúng tôi cho thấy hơn 100 triệu người trên thế giới hiện đang sống dưới mực thủy triều."
"Điều đó có nghĩa là họ phải được bảo vệ bởi các tuyến phòng thủ ven biển như đê. Vì vậy, chính phủ Việt Nam rõ ràng cần kiểm tra tính khả thi của tuyến phòng thủ tự nhiên, hoặc thiết kế các tuyến như vậy trong các vùng dễ bị tổn thương và bắt đầu phát triển chúng," ông Benjamin Strauss cho hay.
"Một cách tiếp cận khác là xây dựng nhà cửa và các công trình theo cách có thể thích ứng với ngập lụt mà không bị hư hại nhiều. Và một cách tiếp cận thứ ba là di dời người dân tại các vùng dễ bị tổn thương lên vùng đất cao hơn," nhà khoa học nói với BBC.
Cần chuẩn bị cho phương án di dân
Tiến sỹ Benjamin Strauss nhấn mạnh:
"Nước biển đang dâng cao mỗi hàng trăm năm. Và cuối cùng thì các thành phố ven biển trên khắp thế giới gần như chắc chắn sẽ bị buộc phải di chuyển vào đất liền và lên các vùng cao hơn, bởi vì có một giới hạn cho việc 'lòng bát' sâu mức độ nào thì người ta còn muốn sống ở đó."
"Điều này đặc biệt đúng ở những nơi có thể trải qua lốc xoáy hoặc những trận mưa lớn. Vỡ hệ thống đê hoặc thiếu hệ thống thoát nước có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng."
"Trong khi tôi không thể nói chi tiết về địa lý của Việt Nam, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng một phần tương đối lớn của Việt Nam nằm dưới mực nước biển, do đó nhiều khả năng dễ bị tổn thương khi nước biển dâng, khi ngập lụt như hiện nay và trong vài thập kỷ tới. Một phần ba dân số Việt Nam đang sống ở những nơi mà, như nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra, có khả năng chìm nước mực nước lũ hàng năm vào giữa thế kỷ này."
"Có một số lượng dân cư lớn như vậy đang đối mặt với nguy cơ nước biển dâng là một thách thức đối với việc di dân. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng nghiên cứu của chúng tôi chưa tính đến hệ thống phòng thủ bờ biển hiện có và trong tương lai. Và trong khi các dữ liệu độ cao của chúng tôi cải thiện đáng kể so với các số liệu cũ vốn dựa trên các hình ảnh vệ tinh, thì đó vẫn chưa phải là kết quả cuối cùng," ông Strauss nói.
Quan điểm của TS Benjamin Strauss trùng với quan điểm của bà Loretta Hieber Girardet, Giám đốc khu vực châu Á và Thái Bình Dương của Văn phòng Liên Hiệp Quốc (LHQ) về Giảm thiểu Rủi ro Thiên tai (UNISDR).
Trao đổi với BBC News Tiếng Việt, bà Loretta Hieber Girardet nhắc rằng "nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ ở Climate Central là một khảo sát có quy mô toàn cầu, có nghĩa là nó dựa trên nhiều giả định và dữ liệu thứ cấp", nhưng nó cũng chỉ rằng "chính phủ cần nghiêm túc thực hiện các cảnh báo do LHQ và các tổ chức khác đưa ra về những rủi ro ngày càng tăng của biến đổi khí hậu.
Trong số các giải pháp đề xuất, bà cho rằng 'di dân' là một lựa chọn để tránh rơi vào thảm họa, trong phạm vi điều này là khả thi và không xâm phạm bất kỳ quyền con người nào.
"Liên quan tới việc người dân nên được tái định cư ở đâu thì chính phủ cần tham khảo ý kiến với các cộng đồng bị ảnh hưởng. Rủi ro về khí hậu và thảm họa tự nhiên chắc chắn là một yếu tố cần tính đến nếu có bất kỳ kế hoạch xây dựng các thành phố mới hoặc cơ sở hạ tầng, hoặc khu tái định cư, ở các vùng thấp dưới mực nước biển," bà Loretta cho hay.
Trong khi đó, bà Dina Ionesco thuộc Tổ chức Di cư Quốc tế, được New York Times trích lời, nói rằng các thành phố nguy cơ bị nước biển 'nuốt' mà nghiên cứu của Climate Central chỉ ra, "cần chuẩn bị từ bây giờ kế hoạch di dân" tới các vùng cao hơn, bởi vì các giải pháp ngăn chặn như xây đê chỉ có tác dụng giới hạn.
"Chúng tôi đang cố gắng gióng lên hồi chuông báo động," bà Dina Ionesco nói. "Chúng tôi biết là điều đó đang xảy ra."
Cần xây dựng chiến lược quốc gia
Bà Loretta Hieber Girardet đưa ra các đề xuất mang tính ngắn hạn và dài hạn khác.
Về mặt ngắn hạn, bà cho rằng chính phủ Việt Nam xây dựng chiến lược quốc gia giảm thiểu rủi ro thiên tai. có tính đến các rủi rui sắp xảy ra, dân số và cơ sở hạ tầng dễ bị tổn thương. Qua đó, xây dựng các công trình, nhà cửa, đê điều để ngăn thủy triều và bảo vệ hạ tầng ven biển.
Về mặt dài hạn, bà đề xuất cần cung cấp các kịch bản rủi ro thiên tai cho bên thiết kế đô thị để quy hoạch cơ sở hạ tầng phù hợp, bao gồm cả các khu dân cư mới và khu công nghiệp, tránh xây ở những khu vực nguy cơ bị biển nhận chìm.
"Chính phủ cần thông qua chiến lược quốc gia để xác định các hành động cần thiết để tránh thảm họa tiềm tàng, ưu tiên theo mức độ từ khẩn cấp đến dài hạn, từ xây dựng đê biển tới sử dụng các hàng rào bảo vệ tự nhiên như rừng ngập mặn.."
Kỷ niệm 'ngập nước' ở Sài Gòn
Dù nhấn mạnh rằng kết quả của nhóm nghiên cứu 'còn sai sót' và 'chưa phải kết luận cuối cùng', Tiến sỹ Benjamin Strauss nói với BBC News Tiếng Việt rằng cùng với trải nghiệm cá nhân, ông cho rằng 'tình hình có thể tồi tệ hơn'.
"Tôi có một kỷ niệm cá nhân khó quên với Việt Nam nhiều năm trước, khi tôi mới bắt đầu nghiên cứu về mực nước biển."
"Khi đó, tôi cùng vợ sắp cưới ghé thăm thành phố Hồ Chí Minh. Một hôm chúng tôi ra ngoài ăn trưa, và trời bắt đầu đổ mưa. Chúng tôi kéo dài bữa trưa và chờ đợi, nhưng mưa không ngớt."
"Một lúc sau, chúng tôi nhận thấy nước bắt đầu dâng cao trên đường phố. Nước dâng cao dần khi mưa tiếp tục. Cuối cùng, chúng tôi quyết định rằng chúng tôi nên trở về khách sạn và đã lội bộ qua vùng nước sâu đến đầu gối suốt quãng đường tới đó."
"Hôm nay nhớ lại kỷ niệm này, tôi tin rằng nước dâng quá nhanh vì thành phố Hồ Chí Minh rất gần mực nước biển, và rồi, nước mưa không thể thoát ra biển một cách hiệu quả vì hầu như không có độ dốc. Nói cách khác, bây giờ nước biển dâng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng rồi. Tôi sợ nó sẽ chỉ tồi tệ hơn mà thôi."
Nghiên cứu của Climate Central
Nghiên cứu của Climate Central, một tổ chức khoa học có trụ sở tại New Jersey, được công bố trên tạp chí Nature Communications, sử dụng một phương pháp chính xác hơn để tính toán độ cao của đất - phương pháp được coi là chuẩn mực để đánh giá mức độ xâm thực của nước biển - và nhận thấy các con số trước đây đã quá lạc quan. Nghiên cứu chỉ ra rằng 190 triệu người sẽ sống trong những khu vực được dự đoán là dưới mức thủy triều vào năm 2100.
Hiện nay, theo tính toán có khoảng 110 triệu người đang sinh sống ở những khu vực này, được bảo vệ bởi các bức tường, đê và các tuyến phòng hộ ven biển khác.
Không riêng miền nam Việt Nam, nhiều nơi khác trên thế giới như Thượng Hải của Trung Quốc, Mumbai của Ấn Độ, một số thành phố của Ai Cập, Thái Lan v.v...cũng sẽ bị biển nuốt chửng.
Nghiên cứu mới này cho hay khoảng 150 triệu người hiện đang sống tại những vùng sẽ chìm dưới mực nước biển vào giữa thế kỷ này.
Những rủi ro trong tương lai mới chỉ cho rằng nóng lên toàn cầu ở mức độ nhẹ; do đó, chưa thấy hết mức độ xâm lấn của đại dương.
Nghiên cứu của Climate Central, được công bố trên tạp chí Nature Communications, đã tìm cách khắc phục những sai lệch trong các bộ dữ liệu về sự dâng lên được sử dụng trước đây để tính toán đường bờ biển nội địa sẽ bị ngập sâu đến mức nào.
Ở một số nơi, việc di dân sẽ dẫn đến hoặc làm trầm trọng thêm các xung đột trong khu vực, theo các nhà khoa học được New York Times trích dẫn.
Đất mất đi do nước biển dân cao sẽ đe dọa gây bất ổn chính trị xã hội trong khu vực, điều này có thể châm ngòi xung đột vũ trang và làm tăng khả năng khủng bố, theo ý kiến từ ban cố vấn của Trung tâm Khí hậu và An ninh, một nhóm nghiên cứu và vận động tại Washington.
Vì vậy, việc này vượt ra ngoài vấn đề môi trường, ông nói. Đó là vấn đề nhân đạo, an ninh và có thể là quân sự.