VĂN TẾ đọc trong lễ khai giảng khóa Huấn luyện và Tu nghiệp Sư phạm kỳ thứ 30, vào ngày 3 tháng 8 năm 2018 tại Little Saigon, Nam California - USA
Trần Huy Bích chấp bút
Lời giới thiệu của ban tổ chức - Ngay từ đầu thập niên 1980, sau khi tạm ổn định cuộc sống trên miền đất tỵ nạn, một số nhà giáo từ Nam Việt Nam đã cùng nhau tổ chức những lớp dạy tiếng Việt cho trẻ em. Ở những nơi tương đối đông người Việt như Nam và Bắc California, Texas, Louisiana…, nhiều trường, lớp tiếng Việt đã được mở, giảng viên là các cựu giáo chức, sau có thêm sự cộng tác của những tình nguyện viên trẻ.
Trong buổi đầu các lớp dạy chỉ là những đơn vị biệt lập, nhưng sau một thời gian, các trung tâm Việt ngữ nhận thấy có nhu cầu liên lạc với nhau, vừa giúp việc lựa chọn cùng soạn thảo tài liệu giáo khoa, vừa để tương trợ và trao đổi kiến thức, kinh nghiệm. Ban Đại diện các Trung tâm Việt ngữ Nam California được thành lập năm 1987, với Nội quy mỗi hai năm bầu lại một lần. Hai năm sau, 1989, khóa Huấn luyện và Tu nghiệp Sư phạm đầu tiên được tổ chức, không chỉ với sự tham dự của các Trung tâm Việt ngữ Nam California (hiện có trên 90), mà còn có sự tham dự của nhiều Trung tâm Việt ngữ ở các nơi khác. Từ đó, mỗi năm một khóa Huấn luyện và Tu nghiệp Sư phạm lại được mở, giảng viên là các cựu giáo chức, cựu giảng viên nhiều kiến thức và kinh nghiệm, học viên là các thầy cô giáo trẻ hơn đến từ các nơi. Mỗi khóa huấn luyện quy tụ khoảng 200 thầy cô giáo, có người tới từ Canada, Âu châu, Úc châu… Năm nay, 2018, là khóa huấn luyện kỳ thứ 30, có giáo chức đến từ Nhật và Na Uy.
Theo truyền thống từ 30 năm nay, mỗi buổi lễ khai giảng đều bắt đầu bằng một nghi thức tế quốc tổ và tiền nhân. Bài văn tế cho lễ khai giảng năm nay do Gs. Trần Huy Bích soạn thảo theo ý kiến và lời yêu cầu của Ban Đại diện, toàn văn như sau.
Năm Mậu Tuất 2018, tháng 8, ngày 3 dương lịch, tại thành phố Garden Grove, tiểu bang California, Hoa Kỳ,
Trước anh linh quốc tổ và tiền nhân,
Chúng con, thầy cô giáo các trường dạy tiếng Việt tại hải ngoại
Đồng thành kính dâng lời nguyện cầu:
Than ôi,
Nước Việt trải bốn ngàn năm văn hiến, đã bao phen phá Tống đuổi Nguyên,
Dân Nam trên chín mươi triệu hùng anh, vẫn nhớ thuở xua Minh dẹp Mãn.
Tổ tiên trước bao đời oanh liệt, hiên ngang giữa đất trời Đông Á, gấm hoa xây một dải giang sơn,
Con cháu nay gặp buổi gian truân, đau thương từ thế kỷ Hai Mươi, tang tóc trải hai phen quốc nạn.
Từ Năm Tư (1954) chia đôi đất nước, nửa quê hương trong nanh vuốt bạo tàn,
Qua Bảy Lăm (1975) mất trọn non sông, cả dân tộc dưới gông cùm cộng sản.
Chuyên tra tấn, tù đày, giết chóc, tội đảng ác ngập tràn đất rộng, không sờn tay một bọn vô lương,
Lại hành hung, cướp đất, đoạt nhà, hận dân oan dâng ngút trời cao, chưa thỏa dạ những phường cướp cạn.
Địch truyền kiếp thừa cơ lấn chiếm, ngàn cây số biên cương phía Bắc, Nam Quan Bản Giốc bỗng nước non Tàu,
Bọn cường lân mượn gió xâm lăng, vạn dặm dài hải phận biển Đông, Hoàng Sa Trường Sa thoắt cờ hiệu Hán.
Ôm “chữ vàng” giả trá, ác với dân, hèn với giặc, một bọn ngu khoe trí tuệ “đỉnh cao”
Mơ “bốn tốt” gian manh, dại ở chợ, dối ở nhà, toàn đảng Cộng hiện tư duy cát sạn.
Bán đất, bán rừng thỏa ý, không màng trông bờ cõi lâm nguy,
Hại dân, hại nước chẳng cần, chỉ mong chật túi tham vô hạn.
Biển Vũng Áng nước hôi cá chết, cảnh tan hoang trùm sáu tỉnh thê lương,
Khói Bình Thuận già ngạt trẻ còi, nỗi nguy khốn ngập ba miền thảm đạm.
Bọn tay sai giặc lại:
Điểm chiến lược Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc, đất tổ tiên xưa quây lại, gọi “đặc khu” để gấp dâng Tàu,
Mẹo gian manh bịt tai, bịt mắt, khóa mồm, luật An Ninh Mạng tung ra, triệt phản đối hầu mau giúp Chệt.
Lòng phẫn uất dâng lên ngùn ngụt: Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Nghệ An,
Mối lo âu trổi dậy bừng bừng: Đác Lắc, Mỹ Tho, Bình Dương, Phan Thiết.
Già trẻ xuống đường bất khuất, cao giọng hô vận nước, quyền dân,
Gái trai lên tiếng hiên ngang, vang lời gọi lương tâm, khí tiết.
Không ngờ những tên phản quốc lại:
Hung hăng mướn côn đồ cản lối, chặn bắt những thanh niên ưu tú, đòn thù hằn giập gãy thịt xương,
Nham hiểm thuê du đãng chặn đường, hành hung nhiều thiếu nữ băng thanh, đánh thô bạo gần kề sống chết.
Ấy chính là:
Chó săn của giặc, đúng lũ tàn dân.
Tay sai cho Tàu, rõ phường phản quốc.
Đúng như lời người trước từng cảnh báo:
“Trúc rừng không ghi hết tội, nước bể không rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.” *
Chúng con hôm nay, thầy cô giáo các trường dạy tiếng Việt ở hải ngoại:
Từ Na Uy, Nhật Bản, Canada, mang danh nghĩa các châu Âu, Á, Mỹ, gom ước vọng tự ba miền đại lục, nửa vòng trái đất bay về,
Với California, Arizona, Oregon, chung tâm tư các bạn Texas, Louisiana, Washington, thêm nhiệt thành của một số tiểu bang, ngàn dặm mây trời lướt tới.
Giữa bao la thế giới, tổ quốc càng khắc khoải trong tim,
Trước tiến bộ hoàn cầu, Việt Nam mãi băn khoăn bên gối.
Lưu lạc nhiều năm hải ngoại, hằng mong sao con cháu chẳng quên nguồn,
Lênh đênh nghìn dặm tha hương, vẫn ước thấy hậu sinh còn nhớ cội.
Dạy tiếng Việt để giữ gìn gốc Việt, mơ đến ngày đất nước trùng hưng,
Ôn sử Nam để trân trọng hồn Nam, tin ở buổi non sông khánh hội.
Nhìn dân tộc giữa giờ bức tử, dù thất phu cũng khó lẽ ngồi yên,
Mong giang sơn sớm cuộc hồi sinh, qua nguy biến sẽ thoát vùng ngục tối.
Nguyện quốc tổ uy linh phù trợ, dân Hồng Lạc sẽ đường quang ý sáng, đưa quê hương vững bước đến thành công,Xin tiền nhân cảm ứng hộ trì, nước Việt Nam rồi biển lặng sông trong, giữa hưng thịnh sánh vai cùng thế giới.
Cung duy—Thượng hưởng.
BAN ĐẠI DIỆN CÁC TRUNG TÂM VIỆT NGỮ NAM CALIFORNIA
* “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi