Đông lạnh. Cái lạnh thấm vào da thịt như mời gọi tâm trí phiêu du. Ngày chớm đông gợi bao cảm xúc không tên. Mỗi khi trời lành lạnh, tôi lại nhớ đến những bản nhạc của Đặng Thế Phong, mặc dù bây giờ không phải là mùa thu. Có lẽ dư âm của những giọt mưa thu như tiếng sầu vạn cổ ngun ngút giữa không gian vô tận.
Đặng Thế Phong là một trong những nhạc sĩ tôi yêu thích. Cuộc đời của ông long đong, dở dang việc học, sống lang bạt với nhiều nghề khác nhau và mất vì bệnh lao.[1] Ba bản nhạc để đời của ông với giai điệu và bút pháp toát lên vẻ u sầu, lãng mạn sống mãi trong lòng những tâm hồn yêu nhạc.
Con Thuyền Không Bến với âm điệu ngũ cung gợi một nổi buồn mênh mang. Lời bài hát được tuần tự gieo vần, nhịp nhàng như một bài thơ. Trong đoạn đầu, chữ “mây” cuối câu đầu đối vần với chữ “mây” ở câu thứ hai. Cuối câu thứ ba, chữ “dòng” đối vần với chữ “lòng” trong cuối câu bốn. Rồi chữ “may” trong cuối câu năm được gieo cùng vần với “say” ở cuối câu sáu, và câu bảy, tám với “ngàn”, “vàng”.
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng
Trong cây hơi thu cùng heo may
Vi vu qua muôn cành mơ say
Miền xa lời gió vang thông ngàn
Ai oán thương ai tàn mơ vàng
Hình ảnh con thuyền không bến, tâm trạng chơi vơi, da diết của hai kẻ yêu đương mà phải xa cách nhau như Chúc Nữ Chàng Ngâu. Thương nhau mà biết duyên có hợp có tan.
Biết đâu bờ bến, thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu?
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu
Rồi những khi chiều buông xuống, cảm thấy bâng khuâng, thương cảm về bóng hình người thương và nổi hờn tủi đọng trên khóe mắt bờ mi. Thuyền chơ vơ lạc lõng giữa muôn trùng sóng nước, mịt mù đêm thâu.
Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng
Biết bao buồn thương, thuyền mơ buông trôi xuôi dòng
Đoạn dưới đây làm tôi thương cảm. Nó nói lên tâm trạng đang yêu tha thiết nhưng có chút gì lo lắng, giằng xéo nội tâm của người nhạc sĩ về một tương lai vô định.
Bến mơ dù thiết tha
Thuyền ơi đừng chờ mong
Một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la,
Thuyền mơ bến nơi đâu.
Hình ảnh con thuyền cũng làm tôi liên tưởng đến một thứ tình non nghĩa nước của bao thân phận lưu vong giữa dòng sông sinh mệnh nghiệt ngã của đất nước. Có cảm tưởng rằng Đặng Thế Phong viết cho mọi thời đại. Nỗi khắc khoải của thế hệ đi trước như những con thuyền không bến, lạc lõng khắp bốn năm châu sau khi miền nam sụp đổ và thế hệ tiếp nối cũng như những con thuyền không bến lờ lững trên dòng sông cội nguồn.
Con thuyền không bến, giọt mưa thu, những hình ảnh gợi bốn mùa xao xuyến trong những tâm hồn viễn xứ. Nhưng có lẽ mùa thu diễn tả đúng tâm trạng sầu vạn cổ của Đặng Thế Phong nên cả ba bản nhạc của ông đều nói về mùa thu. Nó gợi bao cảm xúc dạt dào trong tâm hồn văn nghệ sĩ. Nó không chỉ nổi sầu chóng vánh mà sầu lê thê, sầu miền man. Không biết bao nhiêu thi nhạc sĩ say men thu, khóc cùng thu. Thu gợi nổi buồn bã như “lời rên siết gió heo mây” đối với thi sĩ Hàn Mặc Tử. Thu khiến Đặng Thế Phong muốn khóc muốn than:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!
Hình như nàng thu nhập vào hồn nhạc sĩ để thốt lên những lời nỉ non, những giọt sầu ướt đẫm hồn người. Nghệ sĩ thường mang tâm hồn đa sầu đa cảm. Một chiếc lá rơi cũng khiến họ ngậm ngùi, và tiếng chim non “chiêm chiếp kêu trên cành” được Đặng Thế Phong tưởng tượng như tiếng nhắn nhủ trời ngừng gió, ngừng mưa vì nó khiến cho lòng thêm não ruột. Sự tưởng tượng phong phú đó khiến ta thăng hoa và thổn thức trong từng nốt nhạc, lời ca:
Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành
như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi
mưa buồn chi
cho cõi lòng lâm ly
Ở tuổi đôi mươi, cái tuổi sung mãn của một chàng trai trẻ đang hụp lặng trong giây phút yêu đương, đang “nức nở thương đời” nhưng lại phải “châu buông mau” và nhìn “dương thế bao la sầu”. Sự mẫn cảm đó của người nghệ sĩ thăng hoa khi đối cảnh, đối tình:
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời
châu (nước mắt) buông mau
dương thế bao la sầu
Mây sẽ tan, gió sẽ tạnh nhưng chắc gì nổi sầu vạn cổ sẽ vơi đi. Cuộc vui nào đến rồi cũng sẽ đi, nhưng hồn người mãi rưng rưng sầu:
Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh
mây ngỏ trời xanh
chắc gì vui
mưa còn rơi
bao kiếp sầu ta nguôi
Tôi tìm thấy sự đồng cảm trong nổi sầu vạn cổ của Đặng Thế Phong. Nó không chỉ là nỗi sầu yêu đương trai gái mà bao trùm một nỗi sầu miên man về một kiếp nhân sinh như hạt bụi, như điện chớp, như sương sa trong vũ trụ bao la:
Nữa gót trần ai chu du bốn bể
Ngắm mù sa khâm nhẫn rủ nhau về
Ngắm trái núi chùm mây quên đi cõi chợ
Mịt mù bụi nhân sinh
Hồn du tử mênh mang sầu khổ
Lây lất nhìn đời tan tác khói hương bay
Sự tài tình trong các bài hát của Đặng Thế Phong không chỉ ở sự kết hợp giữa các âm điệu ngũ cung và Tây Phương mà ngôn từ được gieo vần chặt chẽ như bài thơ làm cho bản nhạc thêm dễ nhớ. Ngôn từ đơn giản nhưng ý nghĩa bay bỗng. Cả ba đều diễn tả sự hòa nhịp giữa lòng người, và tâm tình của con người với vạn vật xung quanh. Kỹ thuật dùng cảnh để lột tả cảm xúc tạo sự hoà quyện tuyệt mỹ giữa thiên nhiên và lòng người làm cho bản nhạc thêm tinh túy.
Rồi những cuộc truy hoan sẽ tàn dần, chúng ta mỏi mệt với biết bao cuộc lữ. Hình ảnh con thuyền chơ vơ không bến, những giọt mưa thu rả rích như tiếng gọi chúng ta về với sự tĩnh mặc, nhìn sâu vào bản lai diện mục để nhìn thấy nét mong manh của vô thường, của sinh tử biệt lỵ Nhiều bản nhạc chỉ thích hợp cho một giai đoạn hay kén chọn số người nghe.Tuy nhiên, những bản nhạc của Đặng Thế Phong đều thích hợp cho mọi giới và hầu như ai cũng đều ưa thích. Phải chăng điều đó có nghĩa là ông đã thành công không chỉ về mặt sáng tác mà còn khơi dậy một tiềm thức trong chúng ta. Những nốt trầm buồn xoáy vào hồn nỗi lạc lõng, cô liêu luôn tiềm ẩn trong ta khi đối diện với chính mình.
Đêm Thu thể hiện tâm tình giữa con người tình tự với cỏ cây, hoa lá trăng sao trong khu vườn nhỏ. Con Thuyền Không Bến thể hiện cảm giác cô đơn lạc lõng như con thuyền cheo leo một mình giữa sông nước mênh mông, gợi bao thương cảm đến người thương. Giọt Mưa Thu diễn tả cái sầu vạn cổ, cái buồn não nề, buồn da diết . Ba bản nhạc toát lên sự cảm niệm sâu xa về thân phận. Đôi khi một người nhạc sĩ trải qua một quá trình học nhạc mà cả đời cũng không có một bản nhạc để đời, nhưng Đặng Thế Phong đã dang dở việc học lại viết đến không chỉ một mà cả ba, và vỏn vẹn ba bài nhạc xuất sắc khi tuổi đời còn rất trẻ. Đúng là một sự thiên tài nhưng lại yểu mệnh. Sự trắc tréo của “tài” và “mệnh” mà tạo hóa đã sắp đặt sẳn cho những kẻ tài hoa và bắt họ phải vùng vẫy trong sự nghiệt ngã của thế thời cũng như định mệnh ngắn ngủi mà họ không thể thoát ra được.
Cách thẩm thấu âm nhạc mỗi người khác nhau. Tôi thì để ý âm điệu đầu tiên và sau đó là lời nhạc. Cho dù ý nghĩa của bản nhạc có hay đến đâu mà âm điệu không hay tôi cũng không thích. Ba bản nhạc, ba kiệt tác của Đặng Thế Phong trở thành bất hủ trong lòng tôi và có lẽ trong hầu hết mọi người trong làng tân nhạc Việt Nam. Điều thú vị là mỗi lần nghe bản nhạc tôi đều có cảm xúc bồi hồi, thổn thức như nhau cho dù mười hay mươi năm trước. Nó như quyến rũ, như ma mị. Chắc chắn rằng không chỉ một mình tôi mà biết bao nhiêu tâm hồn đều bao la sầu, dù người nhạc sĩ tài hoa đã rũ bỏ thân tứ đại cả trăm năm trước:
“Đêm Phong vũ khóc hoài thiên cổ lụy
Đàn mưa reo thổn thức tiếng ly cầm…”
(Thanh Tịnh)
Nếu Đặng Thế Phong được coi như một thiên tài trong làng tân nhạc Việt Nam thì Rentaro Taki như một Mozart của Nhật bản. Rentaro Taki cũng tài hoa yểu mệnh. Ông sinh 1879 và mất năm 1929 trong một gia đình công chức. Mới 15 tuổi, ông đã được nhận vào học ở trường âm nhạc Tokyo và ra trường vào năm 1901. Sau đó ông qua Đức để tiếp tục học nhạc tại Leipzig, nhưng buộc phải trở về Nhật Bản vì mang bệnh lao và ông qua đời rất sớm vào lúc 23 tuổi, khoảng lứa tuổi với Đặng Thế Phong. [2]
Taki Rentaro soạn bản nhạc Tojo no Tsuki (Moon over the Ruined Castle) hay Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế vào lúc ông mới lên hai mươi hai tuổi. Bản nhạc mới đầu không có lời, với mục đích cho học sinh cấp hai đánh đàn theo yêu cầu của bộ Giáo Dục thời Minh Trị. Sau đó, bản nhạc được bạn ông, Doi Bansui, một học giả chuyên về văn chương Tây Phương và thâm sâu về Hán và Nhật học, viết lời cho bản nhạc này. Bansui lấy cảm hứng để viết lời cho bản nhạc “Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế” từ cuộc viếng di tích ngôi thành ..bị tiêu huỷ tàn lụi. Trên bức tường thành có một mũi tên với lời đề của nữ chiến binh cũng là thi sĩ Yamamoto Yaeko rằng: “Mai đây ai đến nơi nầy, còn chăng chỉ có mảnh thành dưới trăng…”
Kojo no tsuki (Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế) là sự kết hợp giữa giai điệu Tây Phương và dân ca Nhật Bản. Nhiều tranh cãi cho rằng bản nhạc này không hẳn là nhạc dân ca bởi nhạc dân ca thường diễn tả cảnh nông thôn, dân giả. Tuy vậy, Ánh Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế vẫn phảng phất âm hưởng dân ca. [3] Nó rót vào lòng người sự lắng động và huyền diệu. Bản nhạc này trở thành nổi tiếng sau khi được một nhạc sĩ dương cầm Mỹ Thelonious Monk phát hành trong album Straight, No chaser năm 1960 và từ đó nó được giới thưởng ngoạn Phương Tây yêu chuộng. Ánh Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế được xem như một tinh hoa nghệ thuật của xứ Phù Tang và Rentaro Taki được xem là người tiên phong trong sự kết hợp hai nền văn hoá vào nhạc.
Đại ý của bản nhạc về những ngày xuân xưa trên lâu đài nguy nga, khách tấp nập vui say yến tiệc với chén rượu trong lúc xem hoa Anh Đào nở. Nhưng giờ cảnh cũ người xưa đâu, chỉ thấy ánh trăng đêm sáng soi qua cành thông cổ ngàn năm. Những chiều thu sương thấm, cung kiếm vứt bỏ ngỗn ngang trên bãi chiến trường dưới ánh trăng đêm. Đàn nhạn kêu sương. Bóng trăng xưa cũ giờ nơi nao? Nửa khuya trăng sáng soi hồn ai trên hoàng thành. Ôi tường thành nay đã cỏ mọc phong sương, bên tai chỉ còn nghe tiếng thông reo lao xao. Thế sự chẳng đổi thay. Bao cuộc hưng phế đã đi qua, khác gì với hoang thành hoang phế dưới ánh trăng khuya. [4 ]
Trăng Rọi Hoàng Thành Hoang Phế gợi trong tôi nỗi nhớ Huế da diết. Nỗi sầu vạn cổ đeo đẳng một kiếp lưu vong:
Hồn ta một mớ sầu thiên cổ
Như khúc Nam Ai buốt chạnh lòng
Như đợt mưa dầm rơi xứ Huế
Như mảng rêu phong phủ điện đài
Chợt ngậm ngùi nhớ về ngôi điện đài lăng tẩm một thời vang bóng của Huế xưa bây giờ đã phủ kín rêu phong và những “người muôn năm cũ hồn ở đâu bây giờ? ”
Xé nổi nhớ chia ra thành trăm mảnh
Đưa vào thơ xoa dịu nỗi cô liêu
Hoàng thành xưa chừ phế phủ xanh rêu
Thời vang bóng soi nghiêng thềm ảo ảnh
Vẫn biết trụ hoại là luật của tạo hóa nhưng lòng vẫn hoài cổ. Đặng Thế Phong, Rentaro Taki: hai phương trời một số phận, mỗi phiến tài tình khiến giới thưởng ngoạn mãi vương vấn cả trăm năm nay và ngàn ngàn năm sau nữa. Dù cả hai có mặt trên cõi nhân gian chỉ ngót hai mươi mấy năm nhưng vẫn sống mãi trong lòng hậu thế.
01.14.2018
Lê Diễm Chi Huệ
—————–
Tài liệu tham khảo
[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng_Th%E1%BA%BF_Phong
[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Rentar%C5%8D_Taki
[3] http://lyricstranslate.com/en/kojo-no-tsuki-moon-over-ruined-castle.html
[4]https://minerva-access.unimelb.edu.au/bitstream/handle/11343/40851/Joanna%20%20Final%20Thesis%20A.pdf? sequence=5