Ba con sông có đa dạng sinh học nổi tiếng trên thế giới là Mekong, Amazon và Congo. Một phần ba các loài cá nước ngọt trên thế giới, đều tìm thấy ở lưu vực các con sông này, mà ít thấy xuất hiện ở những con sông khác. Trước kia, trên các dòng sông này, việc phát triển các nhà máy thủy điện được giới hạn, do nhu cầu năng lượng thấp. Phần lớn, là các đập nhỏ, được xây dựng ở trên các vùng suối cao. Tuy nhiên, hiện nay đã có 838 đập thủy điện đã hoạt động, hoặcđang được xây dựng, và 445 đập nữa, còn nằm trong dự án phát triển:
Đang hoạt động Dự án phát triển
Amazon 416 334
Mekong 371 98
Congo 51 13
Thông thường đập được xây cất trên vùng nước chảy nhanh, và các thác nước sẽ giúp gia tăng thế năng của thủy điện. Tuy nhiên, nơi đây lại chính là nơi sinh sống của nhiều loại cá, thích ứng với dòng nước chảy nhanh. Mặc dầu, chưa có dữ kiện về việc phân phối các loại cá vùng nhiệt đới, theo địa lý, nhưng công trình khảo cứu ở lưu vực những con sông lớn cho biết, sự lựa chọn địa điểm xây đập sẽ góp phần quan trọng cho việc bảo vệ đa dạng sinh học.
Các đập thủy điện được xây cất rầm rộ do sản xuất ra năng lượng sạch từ nước, không làm ô nhiễm không khí và là loại sản xuất năng lượng nội địa. Ngoài ra, những hồ dự trữ nước, còn là nơi để giải trí, câu cá, chèo thuyền, bơi lội, ngăn ngừa lụt lội. Tuy nhiên, đập thủy điện cũng là nơi tạo ra nhiều bất lợi, như nước kém phẩm chất vì bị ô nhiễm, thiếu oxygen, gây ra hạn hán, mất đi động vật và thực vật đặc trưng của từng địa phương. Và quan trọng nhất là thiếu nước sẽ không có điện. Ngành ngư nghiệp cũng có nhiều bất lợi như lượng cá suy giảm vì các loài di ngư ( migratory fish ) không thể lội ngược dòng về nơi thích hợp để đẻ trứng và nuôi dưỡng cá con. Bất lợi cho ngành nông nghiệp, là làm giảm diện tích canh tác hoa mầu. Xây cất đập thủy điện, nhất là các đập lớn tại những những quốc gia đang phát triển, còn cần phải tái định cư nhiều triệu dân cư, gây xáo trôn cho đời sống, vì phải thay đổi nếp sống cũ.
Nạn phá rừng để xâp đập, và các hồ trữ nước, đã làm mất đi các cây lớn, nhất là các cây rừng cao từ 20- 30 m. Bình thường, khi trời mưa, nước mưa rơi xuống lá cây, cành cậy, và thân cây, và còn bị ngăn cản bởi gốc cây, rồi mới từ từ ngấm vào đất. Vận tốc nước lưu hành sẽ chậm lại. Nếu đất trơ trụi, nước sẽ chảy với vận tốc rất nhanh, cuốn theo lớp đất trên mặt (topsoil ) và các chất hữu cơ. Bởi vậy, mưa nhiều sẽ tạo ra lũ lụt.
Xây cất đập thủy điện, cần phải tìm cách giảm thiểu tối đa sự tàn phá môi trường sinh học, làm ảnh hưởng đến đời sống, xã hội, và kinh tế. Những đập lớn gây ra nguy cơ tuyệt chủng những loại di ngư do bị cản trở lưu thông ngược dòng về thượng nguồn để hoàn tất chu kỳ cho đời sống. Sự kiện này, tàn phá ngành ngư nghiệp trên các sông ngòi vùng nhiệt đới vì làm trở ngại cho nhiều loại cá, có gía trị cao, có thể di cư vài trăm km, hay hơn nữa, để tránh những mùa nước lụt. Phần lớn các đập xây cất ở hạ lưu sông Mekong, được dự đoán là sẽ làm giảm thiểu số lượng các loài cá trê và cá chép khổng lồ .
Việc xây dựng những thang vượt cho cá ( passage ladder ) ở các vùng Trung và Nam Mỹ đã chứng minh là thất bại. Những đập lớn trì hoãn và giảm đi lượng cá bơi ngược về tới các vùng thuận lợi cho việc đẻ trứng và nuôi dưỡng các cá con. Thay đổi thể trạng của vùng địa lý tạo cơ hội cho lũ lụt, và tàn phá hệ sinh thái . Những hồ dự trữ nước xung quanh đập, chỉ là nơi sinh sống của các loại cá có giá trị thấp, và một số loài không thuộc bản xứ .
Ảnh hưởng của hệ sinh thái từ các đập lớn không giới hạn ở sông mà còn đi xa hơn nữa. Các chất thải ô nhiễm lỏng hay cứng, cuốn theo dòng nước bị chặn lại, làm hủy hoại cơ động dinh dưỡng và tiến trình sinh địa hóa học (biogeochemical processes ) ở những vùng châu thổ, cửa sông, và sinh thái biển. Những bất lợi này, ảnh hưởng đến các lãnh vực canh tác, ngư nghiệp và nơi sinh sống của nhân loại.
Một điều thiếuminh bạch trong tiến trình chấp thuận cho xây đập một cách ồ ạt, đã được nêu ra, và nghi vấn về các nhà yểm trợ tài chánh. Liệu chính phủ có tìm hiểu rõ ràng những rủi ro và ảnh hưởnglâu dàicho những con sông nhiệt đới, đã từng cưu mang bao nhiêu triệu con người bấy lâu nay. Một vài quốc gia đang phát triển, thiếu cácvăn bản hướng dẫn cách thức xây đập, và nhiều quốc gia đã tự động miễn trừ những thủ tục cần thiết, khi cho phép xây các đập nhỏ (<10MW). Mặc dầu phải tốn kém nghiên cứu về những tác động trên môi trường, nhưng nhiều phúc trình chỉ hoàn tất sau khi đập đã đang trên đà xây dựng, mà không thể ngừng lại .
Dự án xây đập thủy điện, chỉ chú trọng vào giải quyết một nhu cầu quan trọng là năng lượng, mà quên lượng gía về những lợi ích kinh tế, về đa dạng sinh học, và tầm quan trọng của khai thác thủy sản. Xây cất những đập lớn, các kế hoạch gia thường thất bại trong việc ước tính phí tổn xây cất, và các lợi ích thực tiễn. Kết qủa là 75% các đập lớn, phải tốn kém thêm 95 % giá dự trù ban đầu, mới hoàn tất được. Những kế hoạch kinh tế thường bị bỏ qua, hay lượng định qúa thấp về những phí tổn để duy trì môi trường sống ổn định, như trường hợp xây cất đập Tam Hiệp ở Trung Quốc, chính quyền đã phải chi phí thêm 20 tỉ dollars, để điều hòa lại hệ sinh thái, bị ảnh hưởng sau khi hoàn tất đập.
Nguyễn Văn Khuy
Kỹ sư Nông Lâm Súc