Thiên nhai hải giác hữu cùng thì
Duy chỉ tương tư vô tận xứ.
Cổ thi
Chân trời góc bể còn đi tới
Chỉ có tương tư không bến bờ.
Vi Huyền Đắc dịch
Nguyên chợt thức giấc và nghe tiếng dương cầm ở phía đầu nhà vọng lại. Chàng kéo chiếc chăn mỏng phủ lên cổ, lắng nghe từng âm thanh nổi dậy trong sự yên tĩnh và se lạnh của buổi tảng sáng. Tiếng đàn trải dài trong khoảng nửa tiếng, rồi ngừng lại một lúc lâu. Chàng tưởng đã hết, nhưng không, tiếng đàn lại nổi dậy... lên cao trong vắt, dồn dập, rồi âm thanh trầm xuống, rời rạc tan dần. Đây mới là bản cuối cùng và lần này thì chàng nhận ra đó là bản Clair de Lune của Debussy.
Thế ra cô con gái bà chủ nhà lại là một tay đàn dương cầm. Nguyên mỉm cười với ý nghĩ là bỗng dưng chàng lại rơi vào khung cảnh đượm màu vương giả cổ kính của tòa nhà cổ với vườn cây và tiếng dương cầm. Sau hơn 2 năm ra miền đất gọi là vùng hỏa tuyến này, Nguyên khá quen với nhiều khu vực của Huế, nhưng riêng Vỹ Dạ vẫn mãi là một nơi giữ nguyên nguồn quyến rũ với nét đẹp lạ có chất cổ tích, với những ngôi nhà cổ đầy hương thơm của hoa nhài, hoa ngọc lan và những cô gái thoáng hiện rồi mất hút trong vườn cây sau dậu dâm bụt. Nhiều buổi chiều đi tản bộ dọc con đường xuyên qua thôn Vỹ, Nguyên đã thầm ước giá có được một căn phòng trong vườn cây kia để thỉnh thoảng có thể tìm những giây phút yên tĩnh trong thời lửa đạn. Vì thế, khi đại đội của Nguyên được về Tiểu Khu nghỉ dưỡng quân sau một trận đánh bị nhiều tổn thất ở căn cứ Quảng Xuyên, chàng đã nhờ mấy người phụ trách hậu cứ đại đội ở Huế tìm thuê cho một chỗ ở Vỹ Dạ. Khi nghe Nguyên ngỏ ý nhờ, mấy nhân viên hậu cứ đều can là thời gian dưỡng quân tối đa chỉ được 2 hay 3 tháng, không nên thuê nhà, nếu cần ở ngoài cứ tới nhà họ. Nghe lời can, chàng cười nói ý mình là muốn có một chỗ lâu dài ở Vỹ Dạ, không phải chỉ trong thời gian dưỡng quân mà sau này nữa. Cuối cùng, ông trung sĩ tên là Lũy, phụ trách tiếp liệu, nói với Nguyên là Vỹ Dạ không có nhà cho thuê, nhưng ông đã kiếm được một chỗ nhà bà con ở Cồn Hến, cũng nhà gạch cổ, vườn cây biệt lập, không thua gì nhà ở Vỹ Dạ mà yên tĩnh thì còn hơn, vì Cồn Hến chạy song song với Vỹ Dạ, chỉ cách một dòng sông hẹp. Ông cho biết chủ nhà là công chức, thuộc dòng gia thế. Ông đã mất cách đây ít năm, chỉ còn bà với 4 người con. Người con trai trưởng tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, đi làm ở xa, hai người con gái và một cậu út còn đang đi học. Thật ra bà không nghĩ đến việc cho thuê nhà, nhưng do ông giới thiệu, lại thấy nhà ngang còn hai gian bỏ trống nên bà ưng thuận. Đây là một tòa nhà cổ đơn giản. Nhà trên 3 gian thông với bếp và nhà ngang 3 gian. Chàng ở gian cuối cùng của nhà ngang, gian giữa để nhiều thứ đồ đạc. Còn gian sát với nhà trên và bếp là phòng của cô con gái lớn tên là Thanh Thảo, nữ sinh Đồng Khánh. Chung quanh nhà là vườn rộng với nhiều loại cây trái như nhãn, thanh trà, măng cụt và nhiều loại hoa như hoa hồng, tường vi, nhài và ngâu. Ngay cổng là một cây hoàng lan bóng rợp đường vào nhà.
Bà chủ, gọi là bà Phán, tuy đã 60, nhưng vẫn còn nét kiều diễm sắc sảo của một thiếu nữ khuê các với tiếng nói thanh tao, và hai cô con gái, nhất là cô chị, chắc hẳn là hiện thân của mẹ thời niên thiếu. Sau mấy ngày dọn đến đây, Nguyên được sống gần với một sắc thái gọi là điển hình của miền Thần Kinh mà chàng đã có những ấn tượng lâu năm qua thơ văn và qua sự truyền tụng. Đó là những cánh áo lụa với suối tóc phủ vai và tiếng nói như chim hót ẩn hiện trên hiên nhà.
Nghe tiếng xe Honda dừng lại phía cổng, rồi tiếng lao xao của một số người đi vào. Nguyên ngồi bật dậy, tung chăn nhảy xuống giường, Chàng mở cửa nhìn ra, thấy cả ban nhân viên hậu cứ và ông đại đội phó đang đứng trước hiên, bèn nói lớn:
- Xin lỗi quý vị, tôi dậy trễ. Mời quý vị vào nhà.
Mọi người bước lên hiên, nhưng không vào nhà mà đứng lại ở hiên.
Ông đại đội phó nói:
- Thôi để chúng tôi ngồi ngoài này cho thoáng, rồi bảo mấy người đi cùng: Vô nhà đem ghế ra đây các cậu.
Khi Nguyên trở ra hiên, ngồi xuống ghế, ông đại đội phó nhìn chàng cười nói:
- Chỗ ở thế ni thì chỉ có thua tiên. Chúng tôi là người Huế mà cũng khó có cơ duyên với tới được.
Nguyên cười, chỉ vào trung sĩ Lũy:
- Cơ duyên là ở ông này. Ông ấy là cứu tinh của những kẻ vô gia cư như tôi, rồi nhìn vào xấp hồ sơ trên tay ông, hỏi:
- Quý vị đến tôi sớm thế này, chắc có việc gì gấp?
Ông tiếp liệu đáp:
- Dạ, không có việc chi gấp, chỉ xin thiếu úy duyệt qua một số hồ sơ và ký một số báo cáo. Rồi nhân tiện, anh em chúng tôi mời thiếu úy qua phố uống cà phê.
Trong khi đọc hồ sơ, Nguyên hỏi:
- Quý vị định tới đâu?
Trung sĩ Luỹ đáp:
- Mời thiếu úy qua Lạc Sơn. Nhân dịp hiếm có ni, ông cũng nên chiêm ngưỡng những màu sắc của một nơi rộn ràng nhất Huế.
Nguyên cười:
- Tôi ra ngoài này đã hơn 2 năm, cũng đã nhiều lần ngồi ở hè đường Lạc Sơn và Phấn với một ly cà phê để nhìn đủ thứ nhan sắc trong một buổi chiều.
Chàng ngừng lại, ký nốt mấy bản báo cáo, rồi nói:
- Cám ơn quý vị có lòng chiếu cố, nhưng xin để lần khác. Còn hôm nay dành phần cho tôi. Trước hết, chúng ta ra An Hòa ăn bún, rồi tới cà phê Tôn ở Đại Nội. Tôi nghe nói cà phê Tôn đã lâu, nhưng chưa biết mùi vị thế nào.
Trung sĩ Tòng, phụ trách quân số, người nhỏ loắt choắt, nổi bật chỉ ở hai mắt kính cận thị, giờ mới lên tiếng:
- Thời còn đi học, em cũng thường hay tới Tôn – Tòng cười: Đám học sinh mới lớn tới Tôn để tập làm nghệ sĩ, vì Tôn là quán của trí thức và nghệ sĩ Huế.
Chuẩn úy Song nói:
- Có một thời tôi cũng theo bạn tới Tôn, nhưng quán bên thành quách hiu quạnh không thể giữ mình lâu, còn Lạc Sơn ở ngay đầu chợ thì xô bồ và ồn ào, nên bọn tôi chọn quán Ngự Viên bên Gia Hội.
Nguyên hỏi:
- Cái tên nghe vương giả, nhưng có gì đặc biệt?
- Ngự viên ở trong một khu vườn, bàn được đặt rải rác bên những gốc cây. Tới đây, nếu không uống cà phê, khách có thể gọi những loại trà đặc biệt như cúc, sen và Chính Thái. Về khung cảnh thì Ngự Viên không quá lặng như Tôn mà cũng không quá ồn như Lạc Sơn – Song cười: Ngoài ra còn có những mái tóc làm duyên cho hương cà phê và khu vườn.
Nguyên đứng dậy theo những tiếng cười của mọi người, rồi nói:
- Vậy hôm nào chúng ta sẽ tới Ngự Viên.
2
- Tối thứ Bảy răng anh Nguyên không đi chơi?
Nghe tiếng hỏi, Nguyên quay lại thấy Thảo đang đứng bên cạnh chiếc ghế xích đu ở trước gian giữa, ngạc nhiên thốt lên: A, cô Thảo, rồi nói:
- Thời gian này với chúng tôi, ngày nào cũng là thứ bảy, chủ nhật cả mà có muốn đi cũng không biết đi đâu.
Thảo ngồi xuống ghế xích đu, nói:
- Tại anh không muốn đi, chớ bên phố đâu có thiếu rạp cine’, quán nhậu, quán cà phê.
- Tới mấy chỗ đó phải có bạn, còn tôi chỉ có mấy ông lính trong đơn vị - Rồi như chợt nhớ một điều, chàng tiếp: Cô Thảo ạ, hơn hai tuần nay, bây giờ tôi mới có dịp nói một lời là xin cám ơn tiếng đàn của cô.
Thảo ngạc nhiên:
- Anh nói chi lạ. Anh không phiền lòng vì phải thức sớm là quá quí rồi, răng lại cám ơn. Tôi thường tập đàn buổi sáng, sau khi học bài xong - Ngừng lại một lát, rồi nàng nói thêm như để giải thích: Vì ở biệt lập xa nhà trên, nên việc đàn buổi sáng đã thành một thói quen. Tôi sợ làm phiền anh, nên đã đàn muộn hơn.
Nguyên nói:
- Như thế, phải nói đó là cơ duyên, vì nhờ sự biệt lập mà ngôn ngữ có thêm thành ngữ “tiếng đàn về sáng”. Từ trước đến nay, người ta chỉ nghe nói “tiếng đàn trong đêm” chớ chưa từng nghe “tiếng đàn về sáng”.
Thảo cúi xuống cười, một lúc sau ngước lên:
- Tôi coi việc đàn cũng như việc học bài, nhưng nghe anh nói thì tiếng đàn về sáng...
Thấy Thảo ngập ngừng như đang tìm chữ, Nguyên ngắt lời:
- Cô cảm tiếng đàn của mình thế nào, chỉ cô biết. Còn tôi nói đây là nói theo cảm xúc của người nghe. Nhưng cứ tưởng tượng được tỉnh dậy trong âm thanh của Serenata, Clair de Lune hay của Ngọc Lan, Suối Tóc, cô sẽ cảm được sự kỳ diệu của tiếng đàn về sáng.
Như nhận ra sự chân thật trong cách nói đùa bóng bẩy của Nguyên, Thảo nói:
- Hôm nay thì tôi hiểu điều chú Lũy nói anh là nguồn vui của đại đội. Nhưng còn một điều..., Thảo ngập ngừng đưa tay hất mái tóc về phía sau, nhìn Nguyên:
- Tôi không hiểu tại răng anh lại ra miền hỏa tuyến ni. Vì ngay nhiều người Huế đi Thủ Đức cũng đã chọn ở lại miền Nam.
Nghe Thảo hỏi, Nguyên nhớ lại sau trận đánh bị nhiều thiệt hại ở Quảng Xuyên, chuẩn úy Song, đại đội phó, đã nói với chàng: “Gia đình tôi ở Huế, nên tôi phải về Huế. Còn anh không dưng ra miền đất nghèo, bão lụt hàng năm và đánh nhau tối ngày ni làm chi?”. Lời của người đại đội phó phản ảnh những thực tế mà Nguyên đã trải qua hơn 2 năm qua, vì gọi là ra Huế, nhưng Huế là bóng dáng thoáng qua có vẻ xa lạ, còn chàng chỉ quen thuộc với những vùng hoang dã, những thôn xóm đầy vết bom đạn và những người dân lam lũ, với những đêm dài nằm trên võng phủ poncho nghe mưa gió ào ào qua những rặng cây. Nguyên biết mình chọn do một âm hưởng lãng mạn, nhưng cái đẹp mơ hồ này đã biến Thừa Thiênmất sau một thời gian khi chàng phải đối diện với những trận đánh du kích suốt ngày qua từng luống khoai, từng bờ tre. Từ đó chàng mơ hồ nhận ra rằng ở xa Huế thì Huế gần, còn tới Huế thì thấy Huế xa quá. Bây giờ nhìn tóc Thảo xõa đầy hai bờ vai trên màu lụa trắng, trong bóng lá phản chiếu ánh trăng lay động trên hiên, tâm trí Nguyên bỗng lại tràn ngập những âm hưởng của ngày trước. Chàng bật diêm châm điếu thuốc, rồi nói:
- Việc chọn miền đất này là do những tiếng gọi từ xa và từ lâu, vì khi còn ở ngoài Bắc, tôi được học mấy cuốn Tân Quốc Văn của Trần Ngọc Chụ, Nguyễn Quý Bính và Hoàng Đình Tuất, trong đó có những bài văn hoặc thơ nói về Huế. Sau 1954, ở trong Nam tôi không thấy bộ sách đó. Cô còn nhỏ, chắc cũng không biết bộ sách đó nhỉ?
Thảo đáp:
- Dạ.
- Trong cuốn lớp nhất có mấy bài tôi nhớ là bài Con Đường Cái Quan, thuật lại lời con đường xe lửa xuyên Việt, đoạn cuối cùng có câu: “Con tàu dừng lại. Tàu đã đến Huế rồi. Huế với những nàng tiên kiều diễm với núi Ngự sông Hương”. Rồi một bài thơ, tôi quên nhan đề, với những câu:
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Yêu em anh cứ anh vô,
Kệ truông Nhà Hồ, kệ phá Tam Giang.
Xe hơi đã đến đèo Ngang,
Đấy qua Hà Tĩnh đường sang Quảng Bình.
Danh sơn gặp khách hữu tình,
Đèo Ngang ơi hỡi là mình với ta.
Nguyên ngừng lại một lát, rồi nói:
- Hai bài này không có gì gọi là tuyệt tác. Bài Con Đường Bắc Nam là một bài tự thuật bình thường, còn bài thơ thuần chất ca dao, nhưng không hiểu sao lúc ấy tôi lại chịu nhiều ấn tượng. Vì thế sau này di cư vào Nam, tôi tìm đọc thêm nhiều sách, truyện viết về Huế, nghe nhiều bản tình ca của Huế như Mưa Trên Phố Huế, Đêm Tàn Bến Ngự, Mắt Huế... rồi nghe Hồ Điệp ngâm bài Đây Thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử với những câu:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra,
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Thì nguyện là sẽ phải tới Huế để biết sông Hương, núi Ngự và thôn Vỹ Dạ. Cứ thế, dần dần miền đất Thần Kinh trở thành một ám ảnh đầy thơ mộng và bí ẩn.
Thảo bỗng ngắt lời:
- Nhưng chừ thì tôi sợ anh thất vọng.
Nguyên nói:
- Không thể nói là thất vọng, vì thiên nhiên và con người Huế vẫn còn đó. Có điều chiến tranh đã làm biến đổi nhiều và làm mờ đi những tiếng gọi của ngày trước. Nhưng đó là chuyện khác. Còn bây giờ tôi đang nói về điều cô hỏi. Ngưng lại một lát như để nhớ chỗ bị ngắt lời, chàng tiếp:
- Chính do điều ám ảnh về sự thơ mộng và bí ẩn của Huế mà hè năm 1958 tôi đã ra đây đi lang tháng suốt hơn hai tháng.
Thảo hỏi:
- Anh thấy Huế ngày đó với chừ khác nhau ra răng?
Nguyên đáp:
- Khác nhiều. Vì lúc đó là thời bình nên mọi thứ êm ả với khung cảnh thiên nhiên đậm đà hơn. Tôi nhớ từ khoảng Phú Lương qua Dạ Lê tới gần Huế, hai bên đường là bờ tre xanh thẳm, nhiều chỗ cành lá vươn ra chạm mui xe. Hai bên đường Vỹ Dạ nhiều dậu bông bụt và trong vườn nhiều hoa hơn. Những quán bánh bèo ở Ngự Bình, Thiên Mụ và Vỹ Dạ còn nguyên nét thôn dã với những chiếc bánh đổ trong những chén nhỏ, muốn lấy ra phải dùng con dao làm bằng thanh tre mỏng. Bây giờ vào quán không còn thấy thứ bánh bèo đó mà chỉ thấy bánh đã xếp sẵn trên đĩa. Tôi nhớ thứ bánh ngày trước, nhưng không tìm đâu ra loại quán đó dù là quán ở chợ quận hay bên đường.
- Lúc nớ anh có tới mấy lăng tẩm?
- Tất nhiên phải tới. Được cái may, ra đây tôi kết thân được với một anh tên Điện, học Quốc Học, ở đường Hồ Xuân Hương, và hai chúng tôi đã dùng xe đạp tới mấy lăng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và tới cả cầu ngói Thanh Toàn. Cô có nhớ hai câu hò về cái cầu này?
- Hai câu nớ thì ở Huế nhiều người biết - Thảo nói, rồi đọc:
Ai về cầu ngói Thanh Toàn,
Cho em về với một đoàn cho vui.
- Tôi muốn đến cái cầu này là do hai câu hò đó và Điện đã dẫn tôi đi. Năm ngoái đại đội tôi hoạt động ở hai quận Hương Thủy và , nên đã có dịp trở lại vùng lăng tẩm và cầu Thanh Toàn. Bây giờ lăng tẩm gần như hoang phế. Lăng nào cũng chỉ có rêu phong, lá rụng đầy sân, đầy đường với tiếng chim hót. Còn cầu Thanh Toàn thì xác xơ. Có lẽ ít người qua lạNam Hòai nên con đường tới cầu và quanh cầu đầy cỏ.
Thảo nói:
- Tôi là người Huế, nhưng chưa đi tới cầu Thanh Toàn, chỉ biết qua ảnh. Còn lăng tẩm thì cũng chỉ tới được lăng Minh Mạng và Tự Đức với ba mạ trước năm 60. Chiến tranh đã thu hẹp Huế mà tôi lại là con gái nên không thể muốn đi mô thì đi như anh. Nhưng trong thời gian lang thang như rứa, anh thấy được chi là thơ mộng và bí ẩn của Huế?
Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Chất thơ mộng của Huế biểu hiện ở toàn thể thiên nhiên núi sông, cây cỏ và nét dáng con người. Nhưng nếu nói riêng thì các cô áo dài trắng, đội nón, đạp xe dưới những hàng phượng vỹ trên đường Lê Lợi, trên cầu Trường Tiền hay sự lặng lẽ của sông Hương nhìn ngược dòng về phía đồi núi phía tây bắc là những nguồn cảm hứng khó nói bằng lời. Còn sự bí ẩn là ở khung cảnh cổ kính với những cô gái ẩn hiện trong những khu vườn ở Vỹ Dạ hay Kim Long.
Thảo nói:
- Tôi đã hỏi người Huế như rứa, mỗi người nói một điểm nào đó, nhưng không ai nói bao quát mà gọn như anh. Hình như người Huế cũng mơ hồ về những điều người ta nói về Huế.
Nguyên lắc đầu:
- Không chắc điều tôi nói đã tới được một phần của sự thơ mộng và bí ẩn của Huế. Nhân cô hỏi thì nói ra một nhận xét theo cảm quan riêng thế thôi. Nhưng tới đây thì chắc cô đã hiểu vì sao tôi ra miền đất này.
Nhìn hai bàn thay Thảo xếp vào nhau trên màu lụa trắng mờ ảo dưới ánh trăng, Nguyên hình dung những lúc hai bàn tay kia đuổi theo âm thanh trên phím dương cầm. Bỗng một nguồn sợ hãi ập đến, vì chàng nhận ra tâm trí mình đã bị cuốn vào một nguồn quyến rũ mà nếu để nó lậm vào sâu thì sẽ mang lụy.
Nguyên bật diêm châm điếu thuốc khác, rồi ngước nhìn Thảo:
- Hơn 2 năm qua gọi là ra Huế, nhưng tôi chỉ sống với mìn bẫy, bắn sẻ và pháo kích ở những thôn làng hẻo lánh. Từ nay nhờ bác và các cô, tôi hy vọng sẽ có những giờ phút sống an bình giữa vườn cây và sông nước Cồn Hến. Nhiều lần tôi đã đứng lại rất lâu trên cầu nhìn hai bên bờ xanh ngắt của dòng sông phân cách Vỹ Dạ và Cồn Hến với bóng người dưới những tàn cây cổ thụ vươn tỏa ra mặt sông.
Thảo nói:
- Anh không biết chớ từ xưa đến chừ, Cồn Hến và Vỹ Dạ đã coi dòng sông như giếng nước của nhà mình.
Nguyên cười:
- Nếu thế thì cô là người đã chiếm phần lớn giếng nước Cồn Hến- Vỹ Dạ. Vì chiều nào tôi cũng thấy cô bơi lội trên đó.
- Còn anh mô có thua ai, chỉ mới tới được hai ngày đã ra chiếm dòng sông - Thảo bật cười đáp lại, rồi nói: Mà anh có thể ở dưới nước cả buổi như rứa thì đúng là một tay bơi lội chuyên nghiệp. Tôi chưa thấy ai ở đây bơi được như rứa.
Nguyên lắc đầu:
- Không phải chuyên nghiệp, nói như thế thì quá. Tôi biết bơi lội từ lúc 7, 8 tuổi, vì làng tôi thuộc tỉnh Quảng Yên, bên cạnh một nhánh sông Bạch Đằng, rồi khi ra ngoài này, tôi có nhiều dịp ở gần biển và sông. Nhưng kiểu bơi của tôi là kiểu của nông dân, có thể ở dưới nước lâu mà không chìm thế thôi. Còn kiểu bơi của cô mới là kiểu tập luyện có phương pháp, nhanh mà gọn.
Thảo cười, định nói thì dừng lại khi thấy Thanh Chi bước nhanh từ nhà trên xuống. Chi cúi chào Nguyên, rồi hỏi Thảo:
- Chị có biết tập hồ sơ với lá thư của anh Khuê ở mô không. Mạ tìm hoài không thấy. Em độ chị đọc và để dưới phòng chị.
Thảo lặng yên như để nhớ lại, rồi gật đầu:
- Chắc để trong ngăn tủ.
Nguyên nhìn Thanh Chi hỏi:
- Ở đây có một dòng sông thật đẹp mà sao cô Chi không đi bơi?
Chi đáp:
- Dạ, cũng có thỉnh thoảng, nhưng Chi lội dở lắm.
- Không dở mô. Tại dị đó - Thảo cười nói, rồi đứng dậy chào Nguyên, cùng Chi vào nhà.
3
Nguyên mới về được ít phút thì Thảo tươi cười bưng một cái khay bước vào.
- Chào anh, anh mới về.
Nguyên đứng dậy:
- A, cô Thảo.
Thảo đặt chiếc khay lên bàn, rồi nói:
- Trung Thu anh không ở nhà, nên mạ tôi bảo dành phần lại cho anh.
- Cám ơn bác và các cô có lòng nhớ đến. Đã lâu lắm tôi không sống với khung cảnh Trung Thu trong gia đình. Trung Thu năm nay tưởng được ở đây với bác và các cô thì lại phải đi - Chàng ngừng lại để nén sự xúc động: Lúc nãy mới về đến cổng, nhìn chiếc đèn sao treo ở hiên dưới ánh trăng, tôi tưởng như mình đang trở về với thời học trò ở ngoài Bắc. Ngày đó mà Trung Thu có được một chiếc đèn thì quý lắm, không thường như bây giờ đâu.
Thảo hỏi:
- Nhà ni không ai còn nhỏ mà răng anh lại cho đèn?
Nguyên cười:
- Các cô thì lớn với ai. Tôi nghe cô giành chiếc đèn bông mai đấy thôi! - Thấy Thảo cúi xuống cười có vẻ thẹn, chàng nói thêm: Các cô với cậu Trung vẫn còn là học sinh mà thiếu đèn thì thiếu hương vị Trung Thu.
Thảo như chợt nhớ ra, lấy con dao nhỏ trên khay cắt chiếc bánh thập cẩm và bánh dẻo, rồi rót trà ra tách:
- Việc của tôi chỉ có chừng ni mà nghe anh nói nên quên mất. Chừ xin mời anh hỉ - nàng nói rồi quay gót bước nhanh ra cửa.
Nguyên nâng tách trà có hình vẽ một nhánh đào màu xanh dương, nhìn màu nước hổ phách với hương sen thoang thoảng, bỗng một nguồn ấm áp dâng lên. Trước đây, khi nghe ông tiếp liệu nói là ông phải kể nhiều về đời sống và nhất là cảnh không gia đình của anh, bà chủ nhà mới bằng lòng cho thuê và hẹn là chỉ cho thuê một thời gian, Nguyên đã định thôi. Nhưng sau đó thấy việc người ta ngại lính tráng là chuyện tự nhiên, còn mình sống thế nào là do mình, nên đã dọn đến. Vì sẵn có ý nghĩ như thế, Nguyên không quan tâm đến việc làm thân với những người trong gia đình. Có dịp tiếp xúc thì nói chuyện vui, rồi chàng quên và trở lại với đời sống lặng lẽ. Niềm vui của chàng là đang được sống với khung cảnh cổ kính đượm màu thôn dã và những nguồn quyến rũ của Vỹ Dạ. Trong hai tháng tới đây, chàng tưởng như đã quên tiếng bom đạn khi ngồi ở chiếc ghế vải ngoài hiên thoảng hương ngâu, đọc sách và nghe tiếng chim hót. Có lẽ đời sống lặng lẽ hồn nhiên này đã làm tăng sự quý mến của gia đình chủ nhà đối với chàng mà điểm dễ thấy là bà chủ đã gọi chàng bằng cậu, hoặc bằng tên, coi như con cháu, còn Thanh Chi và Trung đã xưng em khi trò chuyện. Cách đây ít ngày, khi Nguyên đem bánh và 3 chiếc đèn Trung Thu lên biếu gia đình, chàng đã sửng sốt thấy bà Phán bật khóc khi bà nhìn thấy mấy chiếc đèn. Sau đó bà giải thích là mấy cái đèn đã nhắc lại những ngày ông Phán còn sống, vì tết Trung Thu nào ông cũng mua cho mỗi đứa con một cái. Chàng không ngờ việc mua mấy cái đèn, chỉ coi như thứ quà vui, lại trở thành một mối xúc cảm của cả gia đình.
Nguyên đứng dậy định đi lấy chiếc bếp dầu hôi đun nước pha bình trà khác thì bỗng một tiếng nổ như bom làm rung chuyển nhà cửa, liền đó một tiếng nổ gần hơn làm chàng lảo đảo ngồi xuống ghế và buột miệng: Pháo kích! Hai tiếng nổ kế tiếp xa hơn. Nguyên ước lượng trái đầu gần Đập Đá, trái thứ nhì sát đầu Cồn Hến, còn hai trái sau phía cầu Trường Tiền. Khi nghe tiếng nổ chuyển về phía Tây Lộc, chàng vội đi lên nhà trên. Vừa tới trước gian giữa thì Thảo mở cửa bước ra, Nguyên chỉ lên nhà, rồi cùng Thảo bước nhanh lên bậc thềm.
Thảo gõ cửa đợi một lúc, cửa mới mở. Nhìn Trung, Thảo hỏi: Mạ mô?
Trung vẫn còn sợ, không nói ra lời, chỉ vào gầm bộ ván ngựa.
Nguyên lên tiếng:
- Thưa bác hết pháo kích rồi.
Nhìn Thanh Chi và bà Phán lồm cồm bò ra khỏi gầm ván, mặt vẫn còn tái xanh, chàng tới cầm tay bà dẫn tới bàn, kéo ghế cho bà ngồi, rồi nói:
- Đó là hỏa tiễn 122 ly. Bác nghe tiếng nổ lớn, tưởng gần, nhưng không phải đâu. Con ước lượng nó nổ ở phía Đập Đá và Trường Tiền.
Bà Phán có vẻ hoàn hồn, nhìn Nguyên:
- Tưởng như đổ nhà. Chẳng biết núp ở mô, nên mạ con chui dưới bộ ngựa.
Nguyên nói:
- Thưa bác, mục tiêu pháo kích của nó ở khu này là Tiểu Khu và bản doanh MACV, còn mục tiêu trong thành nội là Mang Cá và sân bay Tây Lộc. Nhà mình ở đây gần mục tiêu pháo kích. Sao bác không nghĩ đến việc làm hầm trú ẩn trong nhà?
Thảo nói:
- Ở đây có một số nhà đã làm hầm. Bọn Thảo cũng có nghĩ tới, nhưng cứ chần chờ, vì mấy mạ con chẳng biết làm răng.
Nghe Thảo nói thế, Nguyên nhìn bà Phán:
- Thưa bác, nhân dịp con còn ở nhà, nếu bác và các cô muốn làm hầm, con sẽ tính cho. Việc đơn giản chớ có gì khó đâu. Nhà mình có bộ ngựa dày như thế kia thì tốt lắm. Chỉ cần bao cát xếp thật dày chung quanh là thành một cái hầm kiên cố.
Bà Phán vui hẳn lên:
- Nghe cậu nói, mới nghĩ ra. Thế ngày mô Nguyên làm được?
- Dạ, làm ngay ngày mai – Chàng vừa nói vừa đứng dậy đi đến bộ ván dùng gang tay đo chiều dài, rộng và cao. Trở lại bàn nhẩm tính, rồi hỏi Thảo:
- Cô biết vựa cát ở đâu không?
Thảo đáp:
- Dạ biết, ở gần đây thôi.
- Sáng mai cô bảo họ chở cho 4 thước, còn bao cát tôi sẽ đem về.
Thảo nhìn Nguyên ngập ngừng: Thảo... muốn làm một cái ở dưới nhà được không?
- Chỉ cần thêm bao cát và ván – Chàng gật gù: Cô tính thế cũng phải, vì khi pháo kích, chạy lên nhà trời tối có thể vấp té, mà lúc đó ai mở cửa. Nhưng còn ván?
- Nhà còn một bộ ván nữa.
- Hầm dưới cô chỉ cần một tấm, vì hai tấm sẽ choán hết phòng. Như thế cần 6 thước cát – Nguyên nói, rồi hỏi: Khoảng 12 giờ đã có cát sẵn sàng chưa?
- Sáng sớm xuống bảo họ chở thì chắc đến trưa phải có.
- Vậy khoảng 1 giờ tôi sẽ đem theo vài anh em trong đại đội về giúp. Chàng quay sang vỗ vai Trung: Ngày mai Trung giúp anh một tay, việc của chú là xúc cát hoặc buộc bao cát.
Thảo hỏi:
- Còn bọn Thảo làm chi?
- Hai cô là chủ, không làm gì hết, chỉ đứng nhìn và sai bảo nhân công. Cả nhà cùng cười.
Chàng nhìn đồng hồ:
- Hơn 2 giờ rồi, bác đi nghỉ thôi.
Nguyên đứng lại giữa sân thoảng mùi hoàng lan với tiếng xào xạc của gió thổi qua lá cây. Nghe sự yên tĩnh từ phía Đập Đá, chàng hy vọng mấy trái hỏa tiễn đã nổ trên sông. Nhưng hướng về Tây Lộc, khu dân cư chật hẹp, nhà cửa san sát... chàng hình dung những tiếng khóc bên xác người với những đống gạch vụn và những miếng tôn quằn bay khắp nơi. Hai năm qua trong những cuộc hành quân, Nguyên đã mấy lần chứng kiến xác binh sĩ tan theo tiếng nổ của đầu đạn đại bác 105 ly được gài bên những trái mìn đặt dưới những cái hố bẫy bên đường hay dưới những lùm cây. Những cái chết trong trận chiến, những cái chết do bắn sẻ, những cái chết do mìn bẫy... Mỗi lần đi là mỗi lần nghĩ đến cái chết... Nhìn lên hiên, chàng thấy Thảo đứng ở cửa nhìn ra sân.
4
Khi ra đến gần bờ sông, Nguyên thấy Thảo và Trung đứng trên bậc xi măng chỉ trỏ như đang bàn cãi điều gì. Chàng dừng lại lưỡng lự, rồi tìm đường đi xuống phía dưới. Lâu nay, ngày nào về sớm Nguyên cũng đi bơi, nhưng vì giữ ý, chàng đi khác giờ hoặc tránh gặp Thảo ở cùng một chỗ. Đi vòng qua hai khu vườn, thấy đã khá xa chỗ chị em Thảo, Nguyên rẽ ra sông, định sẽ bơi qua bờ bên phía Vỹ Dạ thì nghe tiếng Trung gọi. Nhìn lên, thấy Trung đang cười, vẫy tay, có ý gọi chàng tới. Nguyên nghĩ thầm, cười như thế kia thì chắc hai chị em có chuyện vui chớ không phải cãi nhau, nhưng chàng đứng yên, vẫy tay ra hiệu gọi Trung xuống chỗ mình.
- Em với chị Thảo thi lội. Em thắng, nhưng chị ấy cứ cãi, đòi thi lại – Trung vừa thở vừa nói.
Nguyên cười:
- Đòi thi lại thì cứ thi chớ sợ gì. Chú sợ thua à?
- Dạ không, nhưng em nhờ anh làm trọng tài.
Nguyên bật cười vỗ vai Trung:
- Hai chị em chú sao mà ăn thua dữ vậy?
- Em không ăn thua, nhưng chị Thảo nói hoài là ở đây không ai có thể lội hơn chị ấy – Trung vừa nói vừa kéo Nguyên đi.
Nguyên bước theo Trung và nói:
- Thảo năng tập luyện nên có thể nói như thế. Ở đây, thỉnh thoảng anh cũng thấy vài người bên Vĩ Dạ bơi, nhưng có ai bơi thường xuyên như Thảo đâu.
Vừa tới gần Thảo, Nguyên nói:
- Chị sao không biết nhường em mà lại đòi thua đủ như thế?
Thảo cười:
- Thi có độ răng nhường được.
- Vậy là cô đem cờ bạc vào cái giếng Cồn Hến – Vỹ Dạ - Chàng nói, nhìn Thảo bật cười, rồi hỏi: Thế bây giờ quý vị muốn tôi làm gì cho canh bạc này?
Trung đáp:
- Em với chị Thảo thi lại, lội hai vòng. Anh ở trên bờ làm trọng tài.
Nhìn đôi mắt đen ánh lên nét vui tinh nghịch của Thảo dưới chiếc mũ bơi khi nghe chàng nhắc đến cái giếng nước Cồn Hến- Vỹ Dạ, Nguyên muốn Trung thắng cuộc thi này xem ánh mắt đó sẽ biến đổi thế nào, nên chàng nói:
- Tôi đoán cô không nhận thua là do bờ bên này nước quá nông và bờ lồi lõm, khó xác định ai chạm bờ trước.
Trung nói như reo lên:
- Đúng như rứa. Chị ấy bảo em tới gần bờ đã không bơi mà chống chân nhào vô.
- Nếu vậy, để được chính xác, điểm kết thúc vòng hai sẽ ở bờ bên kia. Lấy bậc xi măng sát mặt nước làm chuẩn. Ai chạm tay vào bờ trước là người đó thắng – Nguyên nói rồi nhìn Thảo hỏi: Được không?
Trung gật đầu:
- Như rứa là hết cãi.
- Vậy bây giờ chúng ta bơi qua bờ bên kia – Nguyên nói rồi bước xuống nước, lấy chân đẩy người lao ra xa. Thảo và Trung lao theo làm nước tung tóe cả một vùng. Cả ba cùng tới bờ một lúc. Nhìn thân hình Thảo nở nang trong chiếc quần cụt ống dài tới đầu gối, áo chẽn và mũ bơi giữ gọn mái tóc, Nguyên chỉ Thảo nói:
- Kiểu nhà nghề thế này, anh sợ Trung khó thắng.
Trung nhìn chàng đầy vẻ tự tin:
- Rồi anh coi.
Nguyên thấy môi Thảo mấp máy như định nói, nhưng lại thôi. Nàng đứng thẳng, hai tay vươn ra phía trước như sắp nhào xuống nước. Những giọt nước đọng trên cánh tay, trên cổ và trên hai chân như hòa vào làn da trắng hồng khỏe mạnh. Thảo quay lại bắt gặp cái nhìn của Nguyên, mặt nàng bỗng lộ vẻ bối rối, nhưng vẫn ánh lên nét vui rạng rỡ. Để che lấp sự bối rối, nàng hỏi:
- Bắt đầu chưa anh?
Nguyên gật đầu:
- Bắt đầu, nhưng trước khi thi, tôi nhắc lại mấy điểm: Nghe tôi đếm một, hai, ba thì quý vị lao xuống nước. Tới bờ bên kia phải chạm tay vào, rồi mới quay lại.
Nguyên nói lớn:
- Chuẩn bị - rồi đếm: Một.. hai... ba.
Mới dứt tiếng “ba”, Thảo và Trung như hai mũi tên lao ra xa. Nguyên nghe tiếng cười khúc khích của mấy cô đang giặt ở bến kế bên và tiếng nói: Mấy người thi lội ngộ quá hỉ.
Thảo bơi gọn mà nhanh, nàng có vẻ khoan thai chớ không quá vội vã như Trung. Mấy lần Trung vượt lên, nhưng Thảo lại bắt kịp. Cả hai cùng chạm vào bờ một lúc. Khi quay trở lại tới nửa sông thì Thảo vượt Trung khoảng một nửa người. Tới đây thì Trung hình như mất bình tĩnh, sải tay và chân đập quá mạnh. Nguyên thầm nghĩ, thế kia thì thua mất rồi và chàng mỉm cười với ý nghĩ là không có cơ hội để nhìn mắt Thảo khi thua. Bỗng Thảo bơi chậm lại và Trung lại vượt lên. Nguyên nghĩ hay là nàng nghĩ tới lời phê bình của mình nên để cho em thắng. Nhưng không, nàng vẫn theo sát Trung, rồi khi tới gần bờ, hai cánh tay thon trắng vươn dài, vượt lên lướt vào bờ và thắng Trung một sải tay.
Nguyên đỡ Trung lên bậc xi măng, rồi nhìn Thảo nói:
- Cô thắng, nhưng mức cách nhau hẹp quá. Tôi nghĩ chỉ chừng 2, 3 giây. Như thế có thể nói là gần như hòa - Chàng quay lại Trung: Tôi không biết Thảo và Trung độ nhau cái gì, nhưng cả hai mới tựu trường, tôi sẽ treo giải một chiếc cặp da 4 ngăn loại thượng hạng. Ngày nào muốn thi cho tôi biết.
Trung hỏi:
- Ngày mai được không?
Nguyên đáp:
- Việc của tôi là treo giải, còn ngày nào thì hai người chọn.
- Ngày mai, anh. Trời lạnh rồi - Thảo nói rồi quay nhìn Nguyên mỉm cười: Anh cũng đi bơi thường, nhưng Thảo chưa biết thuật bơi của anh. Anh dám thi không?
Nghe Thảo hỏi, Nguyên bật cười lớn:
- Thua cô là cùng chớ chi mà dám hay không dám.
Trung reo lên:
- Em làm trọng tài cho.
Nguyên nói:
- Thì chú làm trọng tài, nhưng để Thảo nghỉ 15 phút nữa.
Thảo nói:
- Không cần mô. Thảo bơi như ri thường mà.
Nguyên nhìn ra sông, mỉm cười trước sự tinh nghịch của Thảo. Qua ánh mắt, chàng hiểu là Thảo đã tìm được cơ hội để đùa cợt với mình, cũng như thỉnh thoảng nàng đã đùa qua tiếng đàn nửa đêm.
- Bắt đầu hỉ - Trung nói, rồi đếm: Một, hai... ba.
Nguyên quay nhìn Thảo gật đầu, rồi cùng lao xuống sông. Ra tới giữa dòng, Nguyên theo sát và thấy thuật bơi của Thảo hơn mình nhiều, vì thân nàng lướt trên mặt nước như ếch với những sải tay dài, nhẹ nhàng. Chàng cố gắng thử vượt lên, nhưng chỉ có thể cao hơn một chút là Thảo lại theo kịp. Hình như nàng còn có thể bơi nhanh hơn nữa. Tới vòng hai, Nguyên vẫn theo sát Thảo, nhưng có lẽ cả hai thấy thử như thế đã đủ, nên bơi thung dung hơn. Nguyên thấy Thảo quay nhìn mình mỉm cười, rồi dấu mặt xuống nước. Chàng bơi chậm để Thảo vượt lên, nhưng Thảo cũng chậm lại. Cứ thế hai người lướt vào bờ.
Trung nói:
- Hôm nay hòa, nhưng em thấy anh lội như rứa, chị Thảo khó thắng.
Nguyên nhìn Thảo cười:
- Anh không phải là đối thủ của Thảo. Phải tận lực mới đạt được cái hòa đó.
- Em với chị Thảo còn thi lặn nữa, nhưng lội chớ lặn thì em thua hoài – Trung nói, rồi quay sang Thảo: Chị dám thi lặn không?
Thảo bật cười nhìn Nguyên:
- Nếu anh Nguyên dám thì Thảo cũng liều.
- Thì cứ thử một lần cho biết cao thấp để khỏi phải áy náy – Nguyên nói, rồi lao ra xa.
Thảo lao theo, tới giữa sông, Thảo bơi quanh Nguyên một vòng, rồi đếm: Một... hai... ba...Tiếng “ba” vừa dứt, hai người ngụp xuống giữa giòng. Nguyên đang đẩy mình xuống sát đáy thì thấy thân hình Thảo loang loáng tới gần. Nhìn hai tay Thảo chờn vờn trước mặt, Nguyên bỗng cầm lấy tay Thảo kéo lại và cùng một lúc hai người đều dùng một tay ôm lấy nhau... Chỉ kịp chạm môi là cả hai buông nhau ra, bắn mỗi người về một phía.
Khi Nguyên ngoi lên mặt nước, thấy Thảo đang bơi đứng, ngơ ngác nhìn về hướng Nguyên. Chàng lấy tay ra hiệu bảo Thảo cùng bơi về bờ bên Cồn Hến.
5
Nguyên dựng chiếc Honda trước nhà sách Ưng Hạ, rồi đứng nhìn về phía cầu Trường Tiền. Chàng bồn chồn nghĩ đến việc Thảo hẹn gặp ở đây lúc nàng đi học. Nhìn nét mặt Thảo có vẻ hốt hoảng, chàng linh cảm có điều gì bất thường.
- Anh nghĩ chi mà em đến sát bên cũng không biết?
- Ô! Anh nhìn một hướng, em tới một hướng, làm sao thấy – Nguyên quay lại đáp, rồi hỏi: Bây giờ em muốn đi đâu?
- Anh cho em tới chỗ mô xa xa.
Nguyên nghĩ một lát, rồi đạp máy cho xe đi về hướng Kim Long. Trên đường đi, mỗi lúc tới chỗ vắng Thảo lại áp mặt vào lưng Nguyên, và cứ thế cho tới khi xe dừng lại gần chùa Thiên Mụ. Nguyên dẫn Thảo lên một quán nước gần chùa và chọn chiếc bàn ở ngoài hiên quay ra sông. Quán vắng. Cô chủ quán niềm nở bước tới.
Nguyên nói:
- Ở đây có bánh bèo và các thứ chè.
- Em không ăn, cho em cái chi uống.
Nguyên nói với chủ quán:
- Cô cho tôi 2 chai cam Bireley và một bao thuốc Capstan.
Khi cô quán đi vào nhà, Thảo nhìn Nguyên:
- Anh ra Lăng Cô tới hôm nay là 28 ngày. Công việc ngoài nớ ra răng?
- Đại đội chỉ có nhiệm vụ giữ cầu, nên cũng thảnh thơi.
- Vậy anh về được mấy ngày?
- Anh về Tiểu Khu họp. Trưa mai phải đi.
Nén tiếng thở dài, rồi chợt nhớ một điều, nàng hỏi:
- Anh đi Quảng Ngãi?
Nguyên ngớ ra:
- Sao tự nhiên lại có chuyện Quảng Ngãi ở đây?
- Thế răng trong số quà anh đem về, ngoài giỏ cua, còn mấy gói kẹo gương, mấy ký đường phèn, đường phổi Quảng Ngãi.
Nguyên cười:
- À, anh không nghĩ ra. Đó là quà của một ông trung sĩ người Quảng Ngãi đi phép, đem ra cho.
Nhìn cô quán đặt 2 chai nước cam ra bàn, rồi thấy cảnh quán vắng hiu hắt trước màu xanh của sông núi chạy dài vào chân trời, Nguyên hỏi:
- Quán này đã được bao nhiêu năm rồi cô?
Cô quán đáp:
- Tôi không nhớ rõ, nhưng độ chừng cũng tới 15, 16 năm.
Nguyên nói:
- Thời gian thật dài mà quán không mấy thay đổi, 10 năm trước, ra Huế lần đầu, tôi đã tới đây.
Cô quán nhìn Nguyên:
- Thế lần ni chắc anh ở lại Huế luôn?
Nguyên cười:
- Cũng đang cầu như thế, cô ạ.
Nghe chàng nói, cô quán nhìn Thảo chúm chím cười, vừa bước đi vừa nói:
- Nhờ chiến tranh mà Huế có nhiều rể bốn phương, chớ ngày trước không có mô.
Nguyên cười, rót ly nước cam cho Thảo, rồi hỏi:
- Hình như Thảo đang có chuyện gì bất an?
Thảo không trả lời thẳng mà hỏi lại:
- Mấy tháng ở nhà, anh có gặp anh sinh viên thường đến nhà em không?
Nguyên gật đầu:
- Có gặp vài lần.
- Chuyện của em bây chừ là ở anh nớ – Nàng ngừng lại một lúc như để sắp xếp câu chuyện, rồi tiếp: Ba anh Châu, tên anh ấy là Châu, là bạn thân của ba em, nên hai gia đình rất thân nhau. Khi em với Châu còn nhỏ thì gia đình thường đùa ghép đôi, rồi khi lớn lên thì thành một thứ ước hẹn. Tuần trước gia đình anh Châu nói với mạ em là Châu còn niên khóa ni thì xong sư phạm, nên họ xin làm lễ hỏi và sang năm sẽ xin cưới.
Nguyên hỏi:
- Đó là chuyện của gia đình, còn em với Châu có giao ước gì không?
Thảo lắc đầu:
- Em với Châu chưa có giao ước gì.
Nguyên ngạc nhiên:
- Không giao ước, tại sao gia đình lại nói chuyện đi hỏi?
- Chuyện như rứa là lỗi tại em không biết dứt khoát với chuyện tình cảm. Vì cách đây mấy tháng, trước khi anh tới, Châu viết cho em một lá thư tỏ tình và ngỏ ý là sẽ bảo gia đình đi hỏi. Lúc đó em không biết trả lời ra răng. Tra vấn lại, em biết mình không yêu Châu, nhưng thấy Châu đã theo mình mấy năm, học hành cần mẫn, tính tình hòa nhã, nên nếu phải lấy chồng thì anh ấy cũng là một mẫu người đáng quí. Phân vân giữa cái sợ bị ràng buộc khi biết mình không yêu mà cũng không muốn từ chối để cắt đứt một mối liên hệ thân tình, nên em đã kéo dài thời gian bằng cách viết thư không nhận lời, không hứa hẹn mà cũng không từ chối. Em khuyên anh ấy để tâm học cho xong và nói là cả hai còn nhiều thời gian để tìm hiểu và nói với nhau về chuyện ni.
Thảo ngừng lại một lúc, rồi giọng trầm xuống:
- Em cần thời gian chẳng phải để tìm hiểu thêm hay hy vọng tình thân sẽ biến thành tình yêu, vì thời gian như thế là đã quá đủ, nhưng em mua thời gian để có một khoảng rộng ở ngoài sự ràng buộc. Em mơ hồ thấy mình cần thời gian để chờ đợi một cái chi đó. Nghĩ và làm như rứa, chừ em mới thấy là lỗi lầm.
Nguyên hỏi:
- Thế hai người không đi chơi với nhau bao giờ sao?
- Dạ có, thỉnh thoảng đi cine’ khi có phim hay, nhưng lần nào cũng đi với Chi và Trung.
- Giả dụ, Châu mời riêng em thì em sẽ tính thế nào?
Thảo trầm ngâm một lát, rồi đáp:
- Châu mời cả ba hay một mình em thì cũng là chuyện bình thường, vì hai gia đình rất thân nhau. Nhưng Châu chưa từng làm như rứa, nên em cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc đó. Mạ em thì thường khen là tính tình Châu đạo mạo giống ba anh ấy. Em chẳng biết đó là đạo mạo hay quá nhu mì nhút nhát, thiếu chất đàn ông.
Nguyên nhắc:
- Thế còn chuyện lễ hỏi?
- Đến chừ thì em biết việc không dứt khoát chuyện tình cảm đã đưa em tới một lỗi lầm là em đã nuôi dưỡng niềm tin của Châu về thứ tình không cần nói lời hứa hẹn. Chắc anh ấy coi tình thân của gia đình và bức thư viết cho em như rứa là đủ, nên khi tính việc bảo gia đình đi hỏi, Châu cũng không cho em biết trước. Mạ em rất vui khi thấy gia đình Châu lo việc sớm và coi đó là chuyện tự nhiên giữa em và Châu - Thảo dừng lại nhìn Nguyên như cầu khẩn: Chuyện đã như rứa, em không biết nói răng. Bây chừ anh bảo em làm răng?
Nguyên trầm ngâm một lát:
- Em uống nước đi đã.
Chàng châm điếu thuốc nhìn về phía núi. Mặt trời phản chiếu làm rực sáng khúc sông rộng. Từng lớp núi phía tây bắc như những giải mây ánh lên màu tím. Nghe Thảo nói về Châu và qua ánh mắt buồn ẩn nét thơ dại trong cánh áo dài trắng, Nguyên hình dung đến một gia đình nề nếp, đầm ấm với tiếng đàn vọng ra vườn dưới ánh đèn buổi tối. Phải nói gì với Thảo khi nàng cần có một cuộc đời yên ấm mà đời Nguyên thì quá xa cách với nó. Vì thế nghe Thảo hỏi, chàng nghĩ tới giờ phút chia ly.
- Anh Nguyên - Thảo gọi.
Nguyên dập tắt mẩu thuốc ném vào gốc cây, nhìn Thảo:
- Việc đã tới như thế thì em phải lựa chọn. Một bên là cuộc đời phẳng lặng yên ấm, còn một bên là chông gai, bão tố. Bão tố ở đây anh muốn nói đến cả tương lai của em và cả đối với gia đình, vì chắc chắn mạ sẽ không bao giờ bằng lòng cho em lấy một tên lính tương lai vô định, tứ cố vô thân như anh - Nỗi xúc động chợt dâng lên làm Nguyên nghẹn lời, chàng cúi xuống một lúc, dấu cơn cảm xúc: Nếu em chọn con đường yên ấm phẳng lặng thì chẳng có gì để nói nữa, và từ nay chuyện của chúng ta...
Nguyên chợt ngừng lại khi thấy những dòng nước mắt chảy dài xuống má Thảo. Chàng lấy chiếc khăn tay đưa cho Thảo:
- Anh xin lỗi đã phải nói như thế, nhưng em hỏi nên phải nói cho cùng.
Thảo lau nước mắt, rồi lắc đầu:
- Em không chọn như rứa, bão tố chi cũng được. Chừ bảo em làm răng?
Nghe Thảo nói, Nguyên chợt nhớ lời nàng bên bờ sông Vỹ Dạ: Nếu anh Nguyên dám thì Thảo cũng liều. Bây giờ chàng hiểu sự chờ đợi đã có tiếng đáp lại – Em cần thời gian để chờ đợi một cái chi đó. Sự chờ đợi vô vọng mênh mông mà nàng đã gặp đấy ư? Nguyên nhìn ánh mắt chờ đợi của Thảo và cố nén cơn xúc động lại dâng lên:
- Nếu em chọn con đường chông gai thì phải có nhiều can đảm và tự chủ để dứt ra khỏi mối ràng buộc đã quá lâu giữa hai gia đình cùng của em và Châu. Có hai việc Thảo cần làm ngay: Thứ nhất là thưa với mạ em cần học xong cả tú tài lẫn sư phạm như em đã nói với anh, nên chưa nghĩ đến chuyện hôn nhân và em cũng không muốn tình trạng bị đặt cọc trong một thời gian quá dài. Thứ nhì là nói hoặc viết thư bảo Châu hoãn lễ hỏi, vì em cần có thời gian để suy nghĩ kỹ hơn.
Nguyên ngừng lại một lát, rồi giải thích:
- Cách này mạ sẽ dễ nói với cha mẹ Châu mà Châu cũng không bị sốc nặng. Cự tuyệt ngay sẽ rất mệt cho em và cho cả mọi người. Cần qua được chuyện này, rồi sau sẽ tính tiếp.
- Cám ơn anh. Em bị bấn loạn, không biết làm răng.
Nguyên chợt mủi lòng trước ánh mắt vui của Thảo, vì biết rằng điều mình nói cũng chỉ để níu kéo thời gian và nghĩ đến việc phải chống chọi mà Thảo khó có thể vượt qua đối với hoàn cảnh của nàng, rồi bỗng buột miệng: Thế em không sợ chiến tranh à?
Thảo nhìn Nguyên thản nhiên:
- Em sợ, nhưng em chọn.
Câu trả lời như một nhát dao chặt đứt mối sợ hãi đang đè nặng và chàng mỉm cười trước sự sai lầm của mình khi nhìn cánh áo học trò với ánh mắt đen trong, đượm nét hồn nhiên của Thảo.
Mấy cơn gió từ ngoài sông thổi vào lật tung mái tóc phủ kín vai. Thảo đẩy mái tóc ra phía sau, nhìn Nguyên như muốn nói nhưng lại ngập ngừng cầm ly nước đưa lên môi... Thấy thế Nguyên hỏi:
- Em định nói gì lại thôi?
- Đã từ lâu em muốn hỏi anh một điều.
Nguyên cười:
- Muốn hỏi gì thì hỏi, chớ làm chi mà có vẻ nghiêm trọng như vậy?
- Hình như anh có một nỗi buồn chi nặng lắm.
Nguyên hỏi:
- Bằng cớ nào mà em đoán như thế?
- Bằng cớ trên mặt anh. Vì những lúc anh ngồi ở hiên nhà từ chiều tới tối, khi mô nhìn mặt anh, em đều thấy nét buồn đó. Anh chỉ vui khi nói chuyện, còn ngồi một mình thì buồn.
Nguyên ngạc nhiên về điều nhận xét của Thảo, trầm ngâm một lúc:
- Anh không có gì vui mà cũng không có nỗi buồn gì như em tưởng. Anh hay ngồi một mình lặng yên như thế là do mồ côi cha mẹ và quen sống cô độc từ nhỏ đến giờ. Bao nhiêu năm ở Sài Gòn, anh sống một mình một gác xép hay một gian nhà ở ngoại ô, còn bây giờ thì một chiếc võng trong một cái hầm ở căn cứ hay một chiếc võng ở giữa một làng hoang. Trước đây mỗi lần về Huế, anh thấy lạc lõng giữa phố phường. Đời sống như thế thì phải hằn lên những nét buồn chớ làm sao có nét vui.
- Rứa anh không có họ hàng thân thích ở Sài Gòn?
- Anh di cư với gia đình ông chú. Năm 1955, ông chú chết trong trận đánh nhau với Bình Xuyên ở Sài Gòn. Sau đó, bà thím đi lấy người khác. Thế là hết họ hàng thân thích.
Thảo nắm chặt tay Nguyên:
- Từ nay có em.
Nguyên cười:
- Thì cứ cầu với thần sông Hương cho anh ở lại Huế.
- Khi mô cũng trêu em - Thảo cúi xuống nói nhỏ.
Thấy ánh nắng đã gần tắt ở rặng núi cao, Nguyên nói:
- Mình về thôi Thảo, chiều rồi.
Thảo ngước nhìn lên:
- Chừ anh cho em tới chợ Đông Ba. Em đi chợ. Hôm nay anh về nhà ăn cơm.
Nguyên nhìn Thảo định nói, nhưng nàng cười:
- Mạ mời. Buổi trưa mạ bảo em xuống nói với anh mà em quên.
Nguyên hỏi:
- Thế hôm nay cô chủ định làm món gì đãi khách?
Thảo nhìn Nguyên, nét tinh nghịch đã trở lại:
- Em làm món miến sào cua Lăng Cô.
Nguyên bật cười, đứng dậy vào quán trả tiền.
Khi tới những bậc đá xuống đường, Nguyên đứng lại chỉ về phía núi:
- Em coi dòng sông và những lớp núi xanh tím kia. Quán này ở một vị trí nhìn được toàn cảnh sông Hương và núi non phía tây bắc. Hôm em bất chợt hỏi anh thấy gì là thơ mộng ở Huế, anh đã nhớ đến cảnh sắc này.
Tà áo dài lụa trắng bay lên theo gió sông, cuốn vào chân Nguyên. Thảo giơ tay giữ vạt áo, nhìn về hướng núi một lúc, rồi mỉm cười gật đầu.
6
Nguyên ngồi một mình trong quán gần suốt buổi chiều với ly cà phê đen và bao thuốc. Mưa đang phủ trắng rặng núi Hải Vân nên Lăng Cô thành giải đất hoang vu, mờ ảo trong những cơn mưa lạnh. Chàng lơ đãng nhìn chiếc xe hàng ướt át, ì ạch dừng lại ở gần ngã ba đường đi vào chợ Lăng Cô. Hành khách xuống xe, mấy người đầu là binh sĩ đi phép về, kế là mấy bà đi mua hàng với gồng gánh. Người cuối cùng là một cô gái mặc áo mưa trắng mà vừa nhìn thấy, Nguyên sửng sốt lao ra khỏi quán, chạy băng qua đường ôm chầm lấy cô gái:
- Thảo!
- Em đây.
Khi hai mặt dời nhau Thảo mỉm cười nhìn Nguyên trong làn mưa bụi. Chàng lấy bàn tay vuốt những giọt nước trên má Thảo, rồi kéo nàng vào quán.
Ngồi xuống ghế, Thảo nói:
- Áo anh ướt hết rồi.
- Áo jacket dày, không sao.
Cô chủ quán ngạc nhiên thấy hai người ôm hôn nhau dưới mưa ở giữa đường, một việc cô chưa từng gặp, nên bước tới tươi cười hỏi:
- Thiếu uý với cô dùng chi?
- Cô cho tôi hai ly cà phê sữa - rồi quay lại: Em uống được cà phê chớ?
- Dạ được.
Nguyên khuấy cho sữa tan đều trong ly cà phê mới đem tới, đặt trước Thảo, rồi hỏi:
- Em đi Đà Nẵng?
- Dạ.
- Sao lại chọn những ngày gần Tết mưa gió này mà đi?
Thảo đáp:
- Anh Khuê bị bệnh nặng. Mạ định đi, nhưng em bảo trời mưa lạnh để em đi.
Nguyên hỏi:
- Đêm qua một chiếc cầu bị phá sập ở Phú Lộc. Em phải đi bộ bao xa để đón xe Lăng Cô?
- Khoảng hơn 2 cây số, vì qua cầu còn phải tránh một số mô nữa - Thảo đáp, rồi cười: Phải đi vòng theo bờ ruộng trơn, em suýt té mấy lần.
- Cầu bị sập như thế, sao em không trở lại Huế?
Thảo nhìn Nguyên:
- Em cần ra với anh.
Thấy ánh mắt lạ của Thảo theo câu nói, Nguyên linh cảm niềm vui của nàng khi nghe chàng đưa ra cách xử trí ở quán Kim Long đã tan biến, nên hỏi:
- Vậy chuyện anh bảo em làm, kết quả ra sao?
Thảo lắc đầu:
- Tình thế rắc rối hơn. Cả tháng nay em như sống trên lò lửa.
Nguyên không muốn nói chuyện này ở quán, nên chàng lảng:
- Trăm năm mới có một lần gặp nhau ở góc vịnh heo hút này. Ở đây có đủ thứ đồ biển.
Thảo nói:
- Em không muốn ăn chi. Cho em một tô cháo.
- Ăn cháo thôi ư - Chàng đặt tay lên vai Thảo: Đi đường mưa gió cả ngày. Vậy để anh bảo cô chủ nấu cháo cá.
Nguyên vào phía sau nói với chủ quán, lúc quay ra bảo Thảo:
- Em đi với anh vào trong xóm để rửa mặt, rồi sẽ trở lại đây ăn cháo.
Trời đã tối và lạnh hơn dưới những làn mưa buị. Trên đèo Hải Vân vẳng xuống tiếng đại liên với ánh hỏa châu leo lét ở Căn Cứ Hạ. Nguyên nắm chặt bàn tay ấm của Thảo đi qua đường. Hai người cúi đầu tránh những hạt mưa tạt vào mặt, đi ngược gió về phía xóm chợ.
**
Nguyên dẫn Thảo vào chiếc lô cốt đúc bằng bê tông ở gần đầu cầu. Chàng bật diêm, đốt chiếc đèn bát và thấy ánh mắt Thảo lộ vẻ ngơ ngác. Nguyên vỗ khẽ vào vai nàng:
- Em không quen cảnh sống lính tráng này đâu.
Thảo lắc đầu:
- Không phải chuyện quen, nhưng em thấy anh tội quá.
- Trong chiến tranh mà được ở đây là nhất rồi. Khi đi lưu động thì phải nằm đất, nằm võng dưới mưa hàng tuần, hàng tháng với thứ mưa miền Trung, mưa Huế - Nguyên cười rồi nói: Em nằm nghỉ cho đỡ mệt, anh phải đi lo một ít việc.
Khi Nguyên trở vào lô cốt, Thảo đang ngồi trên giường vải, tay mân mê cuốn “And Quiet Flows the Don” và đang nghe Hà Thanh hát bản “Mấy Dặm Sơn Khê” từ chiếc radio nhỏ để ở bàn: “Anh như ngàn gió ham ngược xôi, theo đường mây. Tóc tơi bời lộng gió bốn phương...”. Nguyên mỉm cười thấy nàng mở máy lại đúng lúc có bản nhạc lãng mạn của thời chinh chiến.
Nghe hết bài hát, Thảo tắt máy, rồi chỉ vào hộp mứt thập cẩm và gói trà sen trên bàn:
- Em đem cho anh ít quà tết để trả nợ giỏ cua Lăng Cô.
Nguyên cười, đặt tay lên vai Thảo:
- Phải chi được trả bằng thanh âm.
Thảo nói:
- Em đang tập một số bản mới, ngày mô anh về em trả nợ... Có cả bản anh thường hát, gọi là Hà Nhật... chi đó, tên tiếng Anh là “When will you be back?”
- À, đó là bản “Hà Nhật Quân Tái Lai”. Khoảng năm 1952-53, có nhiều dịp đi tàu đêm từ Quảng Yên ra Hòn Gai và đảo Cát Bà, anh thường nghe người Tàu đứng trên boong tàu hát hay huýt gió bài đó, nên nhập tâm trở thành bài hát ruột của mình. Sau này vào Nam anh cũng nghe nhưng ít hơn – Chàng ngừng lại, vỗ nhẹ vào má Thảo hỏi: Mà sao em tìm ra bản đó?
- Biết mô mà tìm - Thảo đáp, rồi mỉm cười: Nhưng ngẫu nhiên... gặp trong tuyển tập nhạc Romance Piano của Đài Loan.
Nguyên buột miệng:
- Vậy thì cũng ngẫu nhiên như người đi thuê nhà gặp..., rồi chợt ngừng lại, nhìn Thảo cười.
- Răng anh không nói hết?
- Không nói nữa. Nói hết, có người lại phụng phịu bảo khi mô cũng trêu.
Thảo cười:
- Nói đi..., em không nói như rứa nữa mô.
Nguyên lắc đầu:
- Thôi, chờ khi nào trả xong món nợ thanh âm sẽ hay.
- Hết trêu lại làm khó - Thảo vừa nói vừa kéo tay Nguyên áp vào môi một lúc, rồi cầm cuốn sách để lại bàn:
- Đọc mấy câu giới thiệu trên bìa, em biết cuốn truyện ni được giải thưởng Nobel năm 1965. Thế nội dung tác phẩm viết về cái chi anh?
Nguyên nói:
- Đây là bộ truyện lớn nhất của Mikhail Sholokhok, nhà văn Nga Sô, nội dung viết về cuộc nội chiến ở Liên Sô giữa lực lượng Cộng Sản và không Cộng Sản. Ông ca ngợi Cộng Sản, nhưng cũng mô tả những sự thật trong cuộc chiến tranh đó.
Thảo nói:
- Tuần trước mạ bảo em xuống mở cửa phòng anh cho thoáng. Em thấy gia sản của anh toàn là loại sách pocket book, cả chục thùng.
Nguyên cười:
- Anh chẳng có gì ngoài mấy cuốn sách. Hơn một năm qua, anh đã đi thu thập ở khu chợ trời Đông Ba, sách từ mấy căn cứ Mỹ thải ra, thượng vàng hạ cám, bìa dính đầy bơ và dầu. Nhưng nhờ đó mà anh kiếm được nhiều sách hay. Gần một phần ba số sách đó là sách của thế giới Cộng Sản: Liên Sô, Đông Âu, Trung Cộng và cả Bắc Việt.
Thảo nói:
- Em thấy trong mấy thùng, sách còn ẩm, nên đã xếp hết ra ngoài.
- Cám ơn em đã để ý giúp anh việc đó – Nguyên nói rồi nhìn Thảo: Thôi bỏ qua chuyện sách vở. Bây giờ trở lại chuyện của em.
Nghe Nguyên nói, Thảo lặng đi một lúc, rồi nhìn chàng:
- Sau khi em nói với mạ và viết thư như anh chỉ thì em biết thực sự anh Châu không chủ động việc ni mà là gia đình anh ấy. Vì ba anh Châu đang bệnh và đã quá yếu, nên gia đình tính việc hỏi rồi sẽ làm đám cưới sớm.
- Thế còn mạ?
Thảo nói:
- Việc em không bằng lòng lễ hỏi đã làm bấn loạn cả gia đình. Mạ nói là gia đình Châu đã coi em là con dâu từ mấy năm nay, thành ra không biết làm răng. Gần cả tháng họ hàng nhà em, ông chú, bà thím, ông cậu, bà cô đã như đổ thêm dầu vô lửa. Họ bảo em là mấy năm nay tại răng không nói với Châu, tới chừ lại tự nhiên dở chứng - Thảo ngừng lại một lúc để thở: Các ông bà ấy nói là thời buổi chiến tranh, gặp được một gia đình nề nếp, gặp được Châu học hành, ngoan ngoãn như rứa là phúc mấy đời, còn kén chọn chi nữa - Tới đây Thảo nghẹn lời, nàng cúi xuống, rồi nói như khóc: Cả tháng ni, lúc nào nhà cũng như có đám tang, mạ khóc lóc còn các em thì rầu rĩ.
- Thế bây giờ em định thế nào?
Thảo nói:
- Gia đình Châu định tháng giêng sẽ làm lễ hỏi và sau đó mấy tháng sẽ cưới. Còn mạ thì năn nỉ em nhận lời. Mạ nói là để gia đình không thất hứa và không có lỗi với ba – Nàng ngừng lại một lúc nhìn Nguyên chăm chăm: Em định cho mạ biết chuyện, nhưng em sợ mạ sẽ ngăn cấm em và không cho anh thuê nhà nữa. Vì thế, em đã tìm cách ra đây với anh, rồi về sẽ cho mạ biết để chấm dứt mọi chuyện ép buộc.
Nghe Thảo nói, Nguyên bàng hoàng, tay run lên và chàng phải chống bàn tay lên đùi. Hai người nhìn nhau một lúc lâu, rồi Nguyên nói:
- Gia đình đúng ở lý, còn em đúng ở tình. Gia đình không thể hiểu được thứ tình này. Em có thể quyết định đời mình theo tình, nhưng đừng bắt bà cụ phải chịu một vết thương quá nặng. Anh cũng không muốn vì giữ tình mà em phải chịu sự hy sinh quá lớn giữa đời sống còn nhiều tương giao và dư luận. Em còn là học sinh, Thảo ạ.
Nguyên với tay rót ly nước, uống một hơi, rồi rót ly khác đẩy về phía Thảo:
- Trước đây điều anh bảo em chỉ là để mua thời gian đối với một hoàn cảnh bình thường. Bây giờ đã tới chân tường mà em đã quyết định như thế thì làm cách khác. Châu quá khó nói trong chuyện này và không thể quyết định được. Vì thế em phải viết thư cho gia đình Châu, thưa là bao lâu nay em chỉ coi Châu như một người anh. Em không yêu Châu, nên không thể tiến tới hôn nhân. Em cám ơn cha mẹ Châu đã yêu thương tin cậy em, nhưng xin tạ lỗi, vì em phải sống theo tình cảm của mình. Còn với mạ, em cho bà biết việc viết thư tạ lỗi cha mẹ Châu và cho bà biết chuyện của chúng ta. Đây là cách dứt khoát kết thúc mọi mối ràng buộc, sẽ có nhiều buồn giận, nhưng không tạo ra những vết thương – Chàng ngừng lại một lát, rồi tiếp: Việc em ra đây, nói hay không thì gia đình cũng sẽ biết. Vì thế khi về, em nói với mạ là cầu sập, em đã tìm cách ra Lăng Cô, hy vọng có xe đi Đà Nẵng. Nhưng mãi tới gần tối mới tới Lăng Cô, nên em đã phải ở lại chỗ anh.
Nguyên bước tới ôm đầu Thảo, vuốt theo mái tóc phủ đầy lưng. Chàng nâng mặt Thảo lên, vuốt vào hai má xuống đến cằm, rồi tát khẽ vào một bên má:
- Liều lĩnh! Tinh nghịch thì được, chớ không được liều lĩnh, nghe không cô.
Thảo choàng tay ôm Nguyên và dụi mặt vào ngực chàng. Mái tóc dài đen nhánh phủ hết hai bờ vai Thảo và xõa trên ngực Nguyên. Chàng nghe tiếng sóng và gió ào ào ở dưới vịnh, tiếng binh sĩ đổi gác ở đầu cầu và tiếng đại liên nổ rền trên đèo Phú Gia. Nguyên đặt Thảo nằm xuống giường, rũ chiếc mền nylon rằn ri của binh sĩ Mỹ đắp cho nàng. Nhìn hai môi Thảo đỏ mọng trên khuôn cổ cao, mịn như trái nho, chàng bỗng nổi gai ốc. Nguyên tránh đôi môi, vì biết rằng nếu chạm vào đó sẽ bị cuốn trôi, nên đã đặt môi mình vào trán Thảo một lúc, rồi nói trong ánh mắt lung linh của nàng:
- Ngủ đi nhé, khuya rồi.
Chàng đứng dậy buông mùng, vặn nhỏ đèn, với tay lấy chiếc võng nylon, rồi đi ra.
Bước vào hầm truyền tin, Nguyên hỏi người lính đang nằm trên võng:
- Đây còn chỗ treo võng không cậu?
Người lính truyền tin ngồi dậy nói:
- Thiếu úy nằm võng của ông Song cũng được. Võng có sẵn mùng. Ông ấy đi phép chưa về.
- Vậy thì tốt – Chàng vừa nói vừa bước tới góc hầm thì một tiếng nổ trên đường làm rung chuyển hầm truyền tin, liền đó là tiếng nổ ở phía cầu.
- Pháo kích thiếu úy – Âm thoại viên nói nhanh – Non Nước nghe Một trả lời...
- Thiếu úy, Một bảo nó đặt cối ở khoảng đầu khúc quành đường rầy.
Thấy súng cối của mình đã phản pháo, Nguyên bước ra ngoài nói lớn:
- Bắn vào một điểm C thôi, ông Linh.
Quay vào, Nguyên bảo truyền tin:
- Gọi Nhật Tảo.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo, Non Nước gọi trả lời...
Âm thoại viên đưa ống liên hợp cho Nguyên:
- Nhật Tảo, cho tôi gặp thẩm quyền.
- Nhật Tảo, Non Nước gọi... Chào đại bàng. Nó đang pháo tôi bằng 82. Xin đại bàng cho chụp ít trái lên điểm số 3...
Nguyên trả ống liên hợp và bảo truyền tin:
- Nói với Một chú ý chân cầu gần bờ, rồi đem máy ra ngoài.
Nguyên chụp chiếc nón sắt lên đầu, bước ra khỏi hầm trong tiếng đạn nổ trên đường cùng với những tia lửa vọt lên của đạn phản pháo. Đến bên cạnh ụ súng cối 81, Nguyên nói:
- Ngừng đi ông Linh. Để pháo binh giải quyết.
Mấy người lính vũ khí nặng vừa bỏ trái đạn xuống thì những tia lửa dài như ánh chớp cùng với tiếng nổ như xé không gian bùng lên ở phía triền núi.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo... Hướng đó, gần lại 300...
Tiếng nổ thứ hai bùng lên gần hơn.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo... 5 trên 5, cám ơn đại bàng.
Bên triền núi, những tia lửa đã tắt và âm vang của tiếng nổ như đang trải dài vào sâu trong núi rồi mất hút. Trung sĩ Linh lên tiếng:
- Năm hết, tết đến rồi mà bắn phá khắp nơi. Chúng bắn mấy chục trái, được chục trái rơi trên đường, còn bao nhiêu xuống nước hết.
- Mục đích của nó là bắn để phá rối – Nguyên nói, rồi quay sang truyền tin:
- Báo Chi Khu là mình vô sự, còn kết quả pháo binh để ngày mai.
Vừa lúc đó thấy hai ông trung đội trưởng đi tới, Nguyên nói:
- Tôi đang định gọi thì các anh đã tới.
Chuẩn úy Ngô hỏi:
- Có việc chi thiếu úy?
- Sáng mai chúng ta đi lục soát khu vực bên kia xem có dấu vết gì không. Hai anh cho con cái sẵn sàng trước 6 giờ, chờ tôi qua.
Nguyên đứng dậy:
- Chúng ta đi ngủ thôi, mai còn dậy sớm.
Nguyên vừa bước vào lô cốt thì Thảo ôm chầm lấy, hôn lên mặt, lên cổ, rồi gục mặt vào ngực chàng. Chàng ôm đầu Thảo một lúc, rồi bồng đặt nàng xuống ghế bố.
- Em sợ không?
Thảo lắc đầu và chỉ vào hai lỗ châu mai:
- Qua đây, em thấy đạn nổ gần cầu và đạn pháo binh ở sát núi.
Nguyên cười:
- Anh sợ em đang ngồi run, chớ như thế thì thành lính chiến rồi.
Nhìn mái tóc Thảo xõa phủ một bên ngực trên lụa mỏng với ánh mắt đen lung linh dưới đôi mày biếc cong, Nguyên bước đến lấy hai ngón tay đè lên hai mu mắt:
- Hai con mắt này! Thôi ngủ đi nhé, đôi mắt.
Nguyên bước ra khỏi lô cốt, đi dọc theo cầu. Mưa đã tạnh. Rặng núi Hải Vân nổi lên như một trường thành lẩn vào mây đêm. Gió hú từng cơn qua cầu và ở bãi biển bên kia vọng lại tiếng sóng ào ào bất tận. Chàng bước xuống một vọng gác ở chân cầu, hỏi người lính gác:
- Cậu thấy đạn nổ bao xa?
- Dạ, cách cầu chừng mươi, hai mươi thước.
Nguyên trầm ngâm trước hàng chân cầu có vòng dây thép gai bao quanh. Ánh điện soi sáng những con cá lớn bằng bàn tay bơi lượn lên sát mặt nước, rồi mất hút theo những làn sóng xanh cuồn cuộn qua chân cầu. Nhìn người lính ôm súng ngồi bên chân cầu dưới ánh điện, chàng nghĩ đến những chiếc cầu dài 5, 10 mét chìm trong đêm tối trên những quận lộ gập ghềnh, nửa nhựa, nửa đất đá, chạy qua những đồng ruộng, thôn làng, kênh rạch mà hai năm qua đại đội Nguyên đã phải trấn giữ với nhiều tổn thất. Vì thế, khi đại đội được về giữ một cây cầu huyết mạch có ánh sáng điện, lại ở một vị trí địch khó xâm nhập, nên Nguyên thấy yên lòng, thảnh thơi với những thú vui như câu cá dưới chân cầu, đi bắt cua với lính khi nước ròng, chạy ca nô trong vịnh để tìm luồng cá đối. Có lần chỉ hai trái lựu đạn M26 quăng xuống chặn đầu luồng và cuối luồng mà lính đã vớt lên cả trăm con, mỗi con nặng cả kí. Nhưng hơn nửa tháng nay thì tình thế đã thay đổi, vì mìn đã nổ mấy lần trên đoạn đường từ Lăng Cô lên đèo Phú Gia và Phước Tượng. Hai trung đội nghĩa quân của Lăng Cô đã không thể giữ yên cho cái xã ven biển này và đại đội Nguyên đã phải biệt phái cho xã một trung đội để giữ an ninh phía đồi cát ven quốc lộ. Cái vui được về nơi yên ổn đã hết. Rồi trong vài tháng nữa, đại đội sẽ trở lại với những cây cầu chìm trong đêm tối với thôn làng đầy mìn bẫy... Nghĩ đến Thảo, chàng sợ và thương sự liều lĩnh của nàng.
Tiếng đại liên lại nổ rền trên đèo Phú Gia. Nguyên nhìn theo mấy trái hỏa châu vật vờ bay về hướng núi.
7
Nhìn những toán hành khách lũ lượt đi vào mấy quán nước và những chiếc xe hàng đậu nối đuôi nhau chờ giờ xuống đèo, Nguyên nói:
- Huế, Đà nẵng chỉ cách nhau hơn trăm cây số, nhưng do đèo Hải Vân mà phải đi mất một ngày.
Thảo cười:
- Đường đèo nhỏ quá. Em ngồi sát cửa xe, nhiều lúc rờn rợn như xe đi ra ngoài khoảng không ở mấy khúc quành.
Nguyên hỏi:
- Trước đây em đi Đà Nẵng thường không?
Thảo lắc đầu:
- Không anh. Đây là lần thứ ba. Lần đầu đi với ba vô thăm gia đình ông bác thời còn nhỏ. Năm tê, đi với mạ thăm anh Khuê, khi anh mới được bổ làm việc ở Đà Nẵng một thời gian.
Nguyên xoay xoay ly cà phê, nhìn cánh áo dài màu vàng thẫm Thảo mặc nổi bật dưới chiếc áo len đen. Từ ngày biết Thảo, hôm nay Nguyên mới thấy nàng mặc áo dài màu. Vì thế, lúc nàng bước ra khỏi lô cốt, chàng có cảm tưởng Thảo là một bông hoa nở rực giữa trời nắng nhẹ với màu xanh trùng trùng của biển và núi.
Thảo nói:
- Lần trước đi qua Lăng Cô, em chỉ vô quán ngồi đợi giờ xe lên đèo, nên không thấy chi. Lần ni mới thấy được sự ngoạn mục. Khi bước ra khỏi lô cốt, em ngợp trước màu xanh biếc của biển, núi và trời. Nhìn anh đứng tựa thành cầu hút thuốc trong màu xanh đó, em thấy anh không có nét chi là nét của một người lính tác chiến.
Nguyên bật cười:
- Thế lính tác chiến không được đứng tựa thành cầu?
- Không phải... Em không biết nói răng, nhưng có lẽ do kiểu anh đứng hút thuốc.
Nguyên cười, rồi nói:
- Vịnh Lăng Cô ngoạn mục do núi cao bao quanh. Ở dưới nhìn lên thì núi đụng mây. Ở trên đèo nhìn xuống thì mênh mông trời biển. Còn đèo Hải Vân là một kỳ quan nên vua Lê Thánh Tông khi dừng quân ở đây đã ban cho danh hiệu là Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan. Từ ngày ra đây, anh thường lên đèo uống cà phê, nên có nhiều dịp thấy cảnh Lăng Cô thay đổi: Sáng xanh, trưa rực rỡ và chiều tím.
Thảo hỏi:
- Anh đi một mình hay đi với mấy ông trong đại đội?
Nguyên cười:
- Một mình thôi. Các ông ấy ngại xa, chê trên đèo buồn. Trong xóm chợ Lăng Cô có các cô vui hơn.
- Rứa anh lên đèo bằng chi?
- Có khi theo xe khách, có khi đi bằng Honda của mấy ông hậu cứ. Đèo Hải Vân cũng đi theo đường vòng nhiều tầng gần nhau như đèo Ngoạn Mục ở Đà Lạt, chỉ khác Ngoạn Mục là Hải Vân ở cạnh biển và ít hoa dại. Đèo Ngoạn Mục nhìn xuống nhiều tầng thung lũng với những tầng đầy hoa trắng, hoa tím, nhưng đặc biệt là loài hoa dã quì. Có những đoạn, rừng dã quì vàng rực cả một sườn đồi.
Thảo hỏi:
- Dã quì là hoa chi?
- Hoa quì màu vàng, còn gọi là huỳnh hoa có hai loại: dã quì mọc bên núi rừng, hoa nhỏ và chỉ có một lớp cánh, còn hoa quì vườn do người trồng, hoa lớn, có nhiều lớp. Hoa quì luôn hướng về phía mặt trời nên còn có tên là hoa hướng dương. Ở Huế hình như không có. Anh đã đi nhiều nơi, nhưng chưa thấy loại hoa này. Dã quì mọc thành rừng ở Đà Lạt hay những vùng cao nguyên từ Lâm Viên xuống đến Lâm Đồng đã tô điểm cho những con đường, sườn đồi và thung lũng với màu vàng như màu áo của em.
Nguyên ngừng lại nhìn Thảo mỉm cười:
- Khi nào có dịp vào Đà Lạt, em nhớ lấy một ít hạt hoa quì đem về gieo trên đèo Hải Vân.
Thảo hỏi:
- Răng anh không làm mà lại bảo em?
Nguyên đáp:
- Em là người Thuận Hóa, phải nhớ lời chúa Nguyễn dặn con làm đẹp miền đất dựng nghiệp trên đường Nam tiến, còn anh chỉ là người đi theo thì kể chi.
Thảo cúi xuống, bưng mặt để giữ tiếng cười khiến hai vai rung lên, một lát ngước lên:
- Anh nói em không biết đường mô. Răng là Thuận Hóa, răng là đi theo mà biết ai theo ai?
- Anh theo em, nên đã bị cột ở dưới cái giếng Cồn Hến- Vĩ Dạ.
Thảo cúi xuống cười, Nguyên cười theo, rồi nói:
- Hoa quì có một đặc tính là hướng về mặt trời nên trở thành biểu tượng của người thục nữ. Năm đệ tam, học Chinh Phụ Ngâm Khúc, anh còn nhớ hai câu thơ Hán nói về biểu tượng của hoa quì:
Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán
Độc tự khuynh tâm hướng thái dương.
Rồi hỏi:
- Em cũng theo ban C, khi học Chinh Phụ Ngâm có biết hai câu này không?
Thảo cười:
- Thơ Việt còn nhớ không đủ để làm luận, nói chi thơ Hán. Thế nghĩa hai câu đó là răng?
Nguyên đáp:
- Nghĩa là: Hoa vàng rụng không người đoái hoài, nhưng chỉ một lòng hướng về ánh mặt trời. Trong Chinh Phụ Ngâm diễn rõ ý này ở đoạn:
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Thảo gật đầu:
- Đoạn ni em nhớ.
Nguyên hỏi:
- Trong ba tác phẩm Chinh Phụ, Cung Oán và Kiều, Em thích cuốn nào?
- Chinh Phụ Ngâm, anh ạ.
Nguyên cười:
- Tại sao?
- Em thích nhạc điệu của thơ và tình ý của văn. Tình ý trong Chinh Phụ hợp với em hơn, chẳng hạn đoạn- Hướng dương lòng thiếp như hoa – là nói về tâm trạng chờ đợi, nhưng điều làm tỏ lộ được của thời gian chờ đợi mỏi mòn là sự giận hờn của người chinh phụ, vì nhớ thương đến chóng mặt, quay đầu thì biến thành giận hờn.
Nàng ngừng lại một lát nhìn Nguyên với ánh mắt buồn, rồi tiếp:
- Ngoài văn tài và tình ý, nói chung em thích Chinh Phụ Ngâm có lẽ nó gần với hoàn cảnh chiến tranh ngày nay. Vì tiếng than và nỗi đau của người chinh phụ cũng là tiếng than và nỗi đau của biết bao phụ nữ quanh ta. Em nghĩ rằng những người đang mang nặng nỗi đau này sẽ rất thấm thía với câu: Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Thấy Thảo lấy tâm trạng của chinh phụ để vận vào mình, Nguyên ân hận là đã vô tình đi từ chuyện vui của của hoa quì sang chuyện chinh phụ trong khung cảnh đưa tiễn trên đỉnh đèo heo hút này, nên chàng nắm tay Thảo một lúc, rồi hỏi:
- Hôm nào em về?
- Còn xem anh Khuê bệnh ra răng, nhưng lâu nhất cũng chỉ 2 hoặc 3 ngày.
Nguyên nói:
- Từ nay tới tết, anh không thể đi Huế được. Sau tết anh sẽ về nói chuyện với mạ. Gia đình sẽ buồn em và giận anh. Nhưng buồn giận gì rồi cũng sẽ qua. Em nhớ lời anh dặn là cứ thi xong vào sư phạm rồi mình sẽ tính – Nhìn ra đường thấy hành khách lác đác trở lại xe, Nguyên đứng dậy, đi trả tiền, rồi bảo Thảo: Em ra xe, không lát nữa đầy người khó lên.
Khi bước xuống thềm quán, Thảo nói:
- Anh ở lại đây, để em đi một mình.
Thấy mắt Thảo chơm chớp, Nguyên cầm tay nàng:
- Đừng khóc... Đi bình an, qua tết anh về.
Thảo cúi xuống một lúc, rồi nói:
- Em đi, anh.
Nàng cúi đầu bước ra đường và mấy giọt nước mắt lăn nhanh xuống hai má. Đường đèo xế chiều không còn nắng như đi vào khoảng không theo những làn mây trắng đục phủ kín sườn núi phía dốc xuống. Thảo dừng lại đưa khăn tay lên mặt và tà áo dài theo gió vờn lên như một cánh bướm vàng bên vách núi xám, ùn ùn khí núi bốc lên mù mịt dưới vực thẳm.
8
Khi thấy đã đầy đủ ông đại đội phó, 4 ông trung đội trưởng và thượng sĩ thường vụ đại đội, Nguyên lên tiếng:
- Dân Huế năm nay không có Tết. Các anh ở Huế cả, cầu mong gia đình các anh bình yên. Hôm mồng một tết, họp các anh, chúng ta đều hoảng hốt, tâm trí bấn loạn, không biết tình thế sẽ tới đâu. Hôm nay tôi bình tâm và đã nhìn thấy thế thua của địch, nên họp các anh để chia xẻ với các anh về vấn đề này - Nguyên ngừng lại, đập lên vai người lính hỏa đầu vụ:
- Đới, tôi có hộp trà sen, mứt sen và bánh in, cậu đi nấu nước pha trà để mời quý vị đây ăn tết - Khi người lính cầm hộp trà và bình trà ra khỏi lô cốt, Nguyên nói:
- Mấy ngày qua theo dõi đài VOA và BBC, tôi có thể tóm tắt tình hình trên toàn quốc và Huế như sau: Đêm giao thừa Việt cộng đã lợi dụng lệnh hưu chiến, ta giữ còn Việt cộng không, tấn công vào tất cả các thành phố, thị xã trên toàn quốc, nhưng hầu hết các thành phố và thị xã, Cộng quân đã bị đánh bật ra với tổn thất lớn, chẳng hạn như Quảng Trị, Đà Nẵng và Quảng Ngãi Việt cộng đã đại bại. Chúng bỏ xác đồng đội dọc đường, chạy lấy thân. Chỉ hai thành phố Cộng quân xâm nhập, đánh phá, gây được tiếng vang là Sài Gòn và nhất là Huế.
Về trận chiến ở Huế thì đúng giờ giao thừa, Việt cộng đã pháo kích vào nhiều khu vực như Tiểu Khu, cơ quan MACV ở gần Tiểu khu, Mang Cá, và sân bay Tây Lộc. Sau đó, những cánh quân của chúng xâm nhập, chiếm Huế dễ dàng. Ta chỉ còn giữ được Tiểu Khu, Mang Cá - bản doanh Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 1, bến tàu Hải Quân và Đài phát thanh, còn MACV có thủy quân lục chiến Mỹ bảo vệ.
- Việt Cộng chiếm được ưu thế trong 3 ngày đầu từ mồng 1 đến mồng 3 tết. Chúng tự do hoạt động, đi lại trong các khu phố và treo cờ của tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam lên kỳ đài, cờ gồm 1 vạt đỏ có sao vàng, kèm hai bên là 2 vạt xanh dương. Trong mấy ngày này, quân ta bất động.
Tới mồng 4 tết ta bắt đầu phản công với Tiểu Đoàn 9 Dù ở Quảng Trị được trực thăng vận về Mang Cá và đã giải tỏa được khu vực Mang Cá và sân bay Tây Lộc. Tình hình đến nay là như thế. Từ đó, tôi có một số nhận định như sau:
- Việt cộng chiếm được Huế, nhưng sẽ bị bao vây và cô lập, vì lực lượng của ta ở ngoài thành phố vẫn còn nguyên vẹn - Các trung đoàn của Sư đoàn 1, các Chi Khu, các đại đội lưu động của Tiểu Khu và Thiết Giáp ở An Cựu vẫn nguyên vẹn. Dân các quận vẫn có tết, vì Việt cộng dồn lực để tấn công Huế nên không còn quân để phá rối các quận.
- Khi bị phản công, Cộng quân ở ngoài thành có đường chạy, còn lực lượng ở trong thành nội và đại nội sẽ cố thủ, nhưng cố thủ để chết vì hết đạn, không có tiếp viện và không còn đường lui.
- Thực tế trận chiến giữa ta và địch là như thế, nên tôi có một nhận định là Việt cộng sẽ bị tiêu diệt, khi quân ta và quân Mỹ phản công. Vì thế chúng ta yên tâm, giữ vững cây cầu huyết mạch này. Về lương thực thì trước Tết hậu cứ đã tiếp tế gạo và đồ khô quân tiếp vụ. Chúng ta có đủ gạo ăn một tháng. Trận chiến trên Huế chỉ kéo dài vài tuần là cùng. Các anh về tập họp trung đội, nói lại những điều tôi đã trình bày để anh em binh sĩ an lòng. Bây giờ mời các anh uống trà sen, ăn mứt sen và bánh in Huế.
Nguyên xé bao thuốc Capstan mới, đưa mời mọi người. Người lính hỏa đầu vụ bưng hai cái thùng gỗ đặt xuống nền lô cốt làm bàn, và rót nước ra chén.
Ông đại đội phó hỏi:
- Cả tháng chạp anh không lên Huế, răng có được mấy thứ đặc biệt ni?
Nguyên đáp:
- Quà tết của Huế. Trước tết hơn một tuần cô Thảo trên đường ra Đà Nẵng đã ghé lại đây. Hôm đó anh đi phép. Hôm nay mình dùng quà của cô ấy, còn gia đình Thảo ở Cồn Hến thì chắc kẹt rồi.
Chuẩn úy Cát nói:
- Cô Thảo đẹp mà dịu dàng, cái đẹp tiêu biểu của Huế. Nhưng chuyện đặc biệt hơn là cô ấy ra Lăng Cô nên mới có cảnh hai người ôm hôn nhau giữa đường mưa gió. Và việc hôn nhau dưới trời mưa đã trở thành một chuyện lạ đang được truyền khắp Lăng Cô. Tiếc là tôi không thấy tận mắt mà chỉ được nghe mấy cậu lính kể lại. Anh và cô Thảo đã tạo ra một huyền thoại mà sau này những đại đội tới Lăng Cô giữ cầu sẽ được mấy chủ quán ở đây kể lại.
Nguyên cười nói:
- Bình thường thì chẳng ai làm như thế, nhưng do khung cảnh và quá mừng nên mới tạo thành chuyện. Nếu các anh đang buồn, ngồi quán nhìn núi non Lăng Cô mờ mịt trong mưa mà thấy người tình từ trên xe bước xuống thì các anh làm gì? Chắc phản ứng sẽ không khác tôi. Nguyên dừng lại một lát, rồi tiếp: Thôi cứ coi đó là một chuyện đẹp trong đời, còn bây giờ mời các anh ăn Tết với trà, bánh và mứt của cô Thảo....
Sau khi mọi người ra về và Đới đã dọn dẹp ly tách, Nguyên ngồi hút thuốc, nhìn hộp trà, hộp mứt và hồi tưởng lúc từ giã Thảo trên đỉnh đèo Hải Vân. Sao Thảo lại khóc khi Lăng Cô chỉ cách Huế 70 km, chớ đâu phải cảnh sầu lên ngọn ải... Và sao mình cũng quá buồn khi nhìn theo Thảo bước ra xe. Rồi cái buồn ấy đã tăng gấp mấy lần đè nặng lên tâm trí Nguyên khi biết gia đình Thảo đã lọt vào giữa khu vực Cộng quân chiếm giữ ngay từ mồng một Tết. Dân ở Cồn Hến khó thoát vì Cồn chỉ có một cây cầu bắc qua chợ Vĩ Dạ. Địa thế như vậy, chắc dân Vĩ Dạ và Cồn Hến phải ở lại với Việt Cộng. Từ đó, ngày đêm, Nguyên bồn chồn theo dõi tin tức những khu vực quân ta chiếm lại.
**
Nguyên đã đi gần khắp các gian phòng đầy người lánh nạn tại trường trung học Kiểu Mẫu, nhưng không tìm thấy gia đình Thảo. Chàng đang ngơ ngẩn đứng trước một cửa sổ ở dãy cuối thì thấy Thanh Chi ngồi ủ rũ bên cạnh bà Phán và Trung đang nằm. Nguyên bước nhanh vào phòng, cùng lúc Thanh Chi cũng vừa nhìn thấy chàng, mắt mở lớn đứng dậy.
- Thảo đâu?
Chi bật khóc: Chị Thảo chết rồi!
Nguyên nhìn sững, mắt hoa lên. Chàng tựa vào tường rồi ngồi sụp trên nền nhà. Nguyên nhắm mắt lại và nghe tiếng khóc của bà Phán cùng những tiếng ồn ào vây quanh. Một lúc sau chàng mở mắt, lê tới cầm tay bà Phán. Bà đang cúi đầu nức nở trên chiếc chiếu rách, còn Trung ngồi yên nhìn Nguyên với con mắt thất thần. Nguyên cúi xuống nhắm mắt lại một lúc nữa, rồi đứng dậy kéo Thanh Chi và Trung ra ngoài.
Ngồi xuống bậc thềm, Nguyên hỏi:
- Việc xảy ra như thế nào, em?
Chi lấy vạt áo lau nước mắt, đáp:
- Nhà chạy theo người ta để thoát khu vực Việt Cộng chiếm, tới Đập Đá thì chị Thảo bị trúng đạn, đưa được tới trường Kiểu Mẫu thì chết – Chi ngừng một lúc, rồi nhìn Nguyên: Em ngồi vực chị, nghe chị gọi anh lúc chị nấc.
- Vậy mai táng chị ở đâu?
- Ở bờ sông, gần đây.
Nguyên ngồi lặng đi một lúc, rồi đứng dậy nói:
- Các em đưa anh ra chỗ chị.
Nguyên bước theo Chi và Trung, len qua những đám đông, đây đó những giải khăn sô làm trắng sân trường. Chàng dừng lại mua một thẻ nhang để trong chiếc rổ của cô bé bán nhang dạo và nhốt ruột trước cảnh mua nhang tấp nập trên hè đường trước cổng trường.
Thanh Chi, nước mắt dàn dụa, chỉ vào một nấm đất lởm chởm những tảng đất mới lẫn với cỏ. Nguyên đứng lặng nhìn nấm đất đã có những lá cỏ mới mọc màu vàng úa. Gần một tháng, từ mồng 2 tết, qua đài VOA và BBC, Nguyên đã theo dõi từng ngày tình hình chiến sự trong thời gian Cộng quân chiếm Huế. Sáng nay, trên đường về Huế, Nguyên đã hình dung đến lúc gặp ánh mắt và nụ cười chờ đợi của Thảo. Bây giờ, ánh mắt và nụ cười ấy đã biến mất dưới nấm đất cỏ úa kia... Nguyên bật diêm đốt thẻ nhang, cắm lên một tảng đất, rồi ngồi bệt xuống bên cạnh. Chàng ngồi nhìn khói nhang như thiếp đi, chợt tỉnh khi nghe tiếng Thanh Chi gọi:
- Anh Nguyên.
Nguyên đứng dậy nhìn Chi:
- Sáng nay trước khi tới trường anh đã về nhà. Nhà không bị hư hại, nhưng đồ đạc thì ngổn ngang khắp nơi. Một vài ngày nữa hai em nên về thu dọn lại nhà và bảo mạ về, càng sớm càng tốt. Anh thấy nhiều người cũng đã về - Chàng cầm tay Chi và Trung, nhìn về phía Cồn Hến, miệng lẩm bẩm: Thảo... chỉ còn các em... Nguyên định thần nhìn sự đổ nát bên kia sông, rồi lấy chiếc phong bì trong áo jacket đưa cho Chi:
- Em đem về cho mạ. Bây giờ anh phải trở lại Lăng Cô. Anh không vào trong đó nữa, vì thấy anh bà lại khóc – Chàng ngừng lại nhìn nấm mộ một lát, rồi tiếp: Em nói với mạ là việc dời mộ để anh lo.
Nguyên nhìn những làn khói nhang bay vật vờ trên nấm đất, bên cạnh giòng sông đục trôi nhanh, cúi đầu nói:
- Anh đi đây Thảo. Ít ngày nữa anh sẽ về đưa em tới một chỗ khác.
**
Những tiếng khóc nhỏ dần rồi mất hút cùng với những người đi đưa đám tản mác dưới chân triền dốc, để lại ngôi mộ chơ vơ cùng những dấu giày trên đất ướt. Nguyên đứng lặng nhìn bầu trời sũng nước, lác đác những hạt mưa với những đám mây bay thấp trên đồi, rồi ngồi xuống một tảng đá trước mộ. Chàng đã đem Thảo đến đây để nàng được yên nghỉ với ba nàng trên một triền đồi vùng Dương Xuân Thượng mà mấy tháng trước Nguyên đã cùng gia đình lên đây trong ngày giỗ ba Thảo.
Thảo đã nằm dưới kia và sẽ tan biến trong lòng đất, còn chàng ở lại đây chơ vơ giữa cuộc đời đầy giông tố. Ngày mai chàng về đâu và tìm ai? Cánh áo dài trắng cuốn chân Nguyên chợt bay lên với tiếng nói “Từ nay có em” như văng vẳng đâu đây. Nguyên nhìn qua sông, chùa Thiên Mụ ẩn hiện trong những làn mây xám, và gió thổi ào ào qua mấy bụi cây trên đồi. Nguyên nhìn xuống ngôi mộ, bật khóc. Chàng bưng mặt, cúi gập người bên mộ Thảo, hai vai rung lên trong cơn mưa đang đổ xuống./.
Việt Dương