“ANH HÙNG TỬ, KHÍ HÙNG NÀO TỬ” (Viết cho người nằm xuống)

Bây giờ là cuối tháng tư, Tucson sắp vào Hạ, cái nắng không quá gay gắt vì những ngọn gió hiu hiu lạnh của những cơn mưa Xuân còn rơi rớt đâu đây, mang lại cho thành phố một cảm giác vừa gần gũi, vừa xa lạ. Tôi yêu thành phố này, nhưng tôi vẫn không bao giờ quên Sàigòn thân yêu, mà tôi từng sống ở đó , nhất là không bao giờ quên những ngày tháng tư đau buồn ở quê hương tôi, miền Nam VN, nơi những người thân của chúng tôi, những bạn bè của chúng tôi đã vĩnh viễn nằm xuống vì lý tưởng Tự Do, “vì thanh bình cho đất nước và vì an lạc cho dân lành” như  nguyện ước của cố Thiếu Tá TônThất Trân đã viết trong cuốn lưu niệm K20/TVBQGVN mà tôi đã được đọc.

Thiếu Tá Tôn Thất Trân

Tôn Thất Trân anh là ai? Thật tình mà nói, tôi chưa bao giờ được gặp gỡ, quen biết anh ngoài đời, mà chỉ được biết anh qua những đặc san của Binh Chủng TQLC, Đa Hiệu, Hậu Nghĩa, qua lời kể của chồng tôi, Hà Mạnh Sơn/K20, qua những bạn bè cùng khóa hay cùng trường Võ Bị QGVN của anh, hoặc những người quen anh mà thôi.

      Thế nhưng, đã không hiểu sao tôi lại cảm thấy lòng mình chợt có một sự xúc động khó tả, một niềm tiếc thương, một sự kính phục như trào dâng trong tôi, khi nghe, khi đọc những điều về anh, và ngày hôm nay, tôi ngồi đây viết những dòng chữ này, như một nén hương muộn màng, như một vòng hoa tươi chân thành, xin kính dâng hương hồn người anh hùng của Khóa 20/ VBQGVN, cố Thiếu Tá Tôn Thất Trân. Anh không chỉ là anh hùng của riêng Khóa 20, mà anh còn là một anh hùng vị quốc vong thân của toàn dân Việt Nam, khi anh đã nằm xuống cho chính nghĩa“…vì thanh bình cho đất nước và vì an lạc cho dân lành.” Tổ quốc ghi ơn anh, lịch sử ghi công anh. Chúng tôi những người con dân của miền Nam VN cũng luôn luôn nhớ và ghi ơn anh, cũng như nhớ và ghi ơn những anh hùng tử sĩ của VNCH đã nằm xuống để bảo vệ quê hương, để chúng tôi được sống còn đến ngày hôm nay:

                            

                           … Bao năm qua rồi anh biết không

                               Từ ngày áo chiến đẫm máu hồng

                               Người lính một thời cao ngạo ấy

                            Đã trả xong rồi, nợ núi sông

 

                                          ***

  Anh đã nằm đây, đã ở đây

                            Hình hài che lấp dưới cỏ cây

                            Tên anh muôn thuở luôn sống mãi

                            Hùng khí còn đây, vẫn thật đầy…

                                             (Thương Tiếc - Tường Thúy)

 

       Anh còn nhớ gì không anh? Nhớ ngày nào anh cũng như bao chàng trai đất Việt, khi Tổ Quốc lên tiếng gọi, đã sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, gia nhập quân đội để  bảo vệ đất nước, bảo vệ dân lành bằng một bầu nhiệt huyết, một ý chí hào hùng, quyết diệt bọn Cộng Sản  tàn bạo vô lương :

                                         Chàng trẻ tuổi vốn dòng hào kiệt

                           Xếp bút nghiên theo việc đao cung

                           Thành liền mong tiến bệ rồng

Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời…

                  (Chinh Phụ Ngâm- Đoàn Thị Điểm)

Năm 1963, anh đã tình nguyện ghi tên vào học Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt, một quân trường đào tạo các cấp sĩ quan chỉ huy nổi tiếng của vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ, với thời gian là hai năm rèn luyện.

        Nếu nói Đà Lạt là vùng “địa linh, nhân kiệt” thì cũng không sai. Nơi đây là một vùng đồi núi chập chùng, suối ngàn, thác bạc nên thơ, với những rừng thông thơm ngát hương nhựa thông xanh, với những mặt hồ lung linh soi bóng mây trời, những dòng thác  bạc hùng vĩ, với những kỳ hoa dị thảo nở khắp bốn mùa, hơn nữa nơi đây còn có một quân trường nổi tiếng, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, đã đào tạo, hun đúc  không biết bao nhiêu là nhân tài cho đất nước, những người sĩ quan chỉ huy, trí dũng song toàn, những người lính quả cảm, can trường và bất khuất, mà trong đó có một người mang tên Tôn Thất Trân/K20

     Anh có còn nhớ không, những ngày xưa thân ái đó, nơi anh đã cùng các bạn trải qua những tuần đầu sơ khởi nhọc nhằn của người tân khóa sinh, để nếm mùi” thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Từng bước các anh đã làm quen với đời sống quân phong, quân kỷ, với những bữa ăn “vuông góc”, bật dậy theo tiếng kèn báo thức… Rồi dần dần, những đêm dạ hành, những phiên gác đêm, những lần được ra phố gặp gỡ bạn bè, và nhất là những giây phút êm đềm bên người con gái anh quen, dưới rặng thông xanh hay bên dòng thác bạc, đã cho anh cái cảm giác thấy mình trưởng thành hơn, chín chắn hơn và oai vệ hơn trong bộ jaspé hay worsted. Phải thế không anh?

       Thời gian hai năm trôi qua rất nhanh, dù với một khuôn mặt rất trẻ cùng cái lon thiếu uý trên vai, nhưng bầu nhiệt huyết của người lính lúc nào cũng như sục sôi trong người, và, Thủy Quân Lục Chiến là binh chủng đầu tiên được anh chọn để gia nhập sau khi ra trường, đây cũng là một trong những binh chủng nổi danh thiện chiến của Quân Lực VNCH. Cuộc đời binh nghiệp của anh bắt đầu từ bấy giờ, người chiến sĩ này rày đây, mai đó đã đi theo đơn vị trong những cuộc hành quân ở khắp mọi miền đất nước:

                           Người trai trẻ khoác áo xanh rừng núi

Anh mang danh người lính chiến Cộng Hòa

Yêu quê hương anh chẳng ngại xông pha

Nơi chiến tuyến đối đầu ngăn bước gịăc

Người lính đó, dù gió mưa cũng mặc

Quyết giữ yên bình cho xứ sở quê hương

Chiến thắng lẫy lừng vang dội bốn phương

Nào Tống lê chân, Hạ Lào, Đức Huệ

Nào Cổ Thành, nào Bình Giả, Đức cơ

Nơi anh đi mầu khói súng phủ mờ

Những người lính của bốn vùng chiến thuật…

                            (Vì anh là lính - Tường Thúy)

      Bước chân của người lính trẻ Tôn Thất Trân đã cùng với những đơn vị ĐĐ1/TĐ1/TQLC, ĐĐ2/TĐ7/TQLC, TĐP/TĐ7/TQLC, TP3/LĐ147/TQLC của mình, chiến đấu, mải miết hành quân qua bốn vùng chiến thuật như: Thung lũng Việt An, Quảng Tín - Rạch Cái Thìa Định Tường - Tết Mậu Thân 1968, GòVấp, Gia Định - Tết Mậu Thân Huế - U Minh Thượng, U Minh Hạ, Cà Mau - Vượt Biên Campuchia - Hạ Lào - Lam Sơn 719, Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa, Trận Đánh Cầu Bến Đá, Mỹ Chánh, Quảng Trị - Đổ Bộ Bờ Biển Mỹ Thủy, Quảng Trị - Chợ Sãi, Triệu Phong, Quảng Trị - Và sau cùng anh về Hậu nghĩa với cuộc hành quân An Ninh Lãnh Thổ Đức Hòa,Tiểu Khu Hậu Nghĩa, với chức vụ TĐT/TĐ327/ĐPQ/TK Hậu Nghĩa.(Lê Tấn Tài/K20). Không nơi nào là không hằn dấu chân anh. Và với những trận đánh oai hùng tiêu giệt giặc Cộng, những lần nằm gai nếm mật cùng với bạn bè, với đồng đội, những lần truy đuổi kẻ thù trong đêm tối hay trong mật khu của địch, hẳn anh đã thỏa mãn được trí tang bồng hồ thỉ của người trai thời chiến, đúng như ý nguyện của mình:

   “… Thích cuộc sống hào hùng, đầy nguy hiểm và thử thách trong tương lai.”

                                                         (Tôn Thất Trân – Lưu niệm K20).

Có phải như vậy không anh?  Rồi nhất là trong trận đánh tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, một trận chiến hào hùng khét tiếng trong lịch sử chiến đấu cùa QLVNCH, mà báo chí ngoại quốc không ngớt lời khen tặng các quân binh chủng đã tham chiến, anh đã được vinh dự nhận Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, khi đã anh dũng cùng các đồng đội, cùng các binh chủng khác của QLVNCH, đánh bật giặc thù, chiếm lại Cổ thành và cắm lên đó lá cờ vàng bất diệt của Tổ quốc Việt Nam. 

                          Cờ ngạo nghễ bay, Cổ Thành ghi dấu

                         Chiến tích oai hùng Quân Lực Việt Nam

                        Thuỷ Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù chiến đấu

                        Bên Biệt Động Quân anh dũng vô vàn

                                                                    Tường Thúy

Năm 1963, anh đã tình nguyện ghi tên vào học Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt, một quân trường đào tạo các cấp sĩ quan chỉ huy nổi tiếng của vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ, với thời gian là hai năm rèn luyện.

        Nếu nói Đà Lạt là vùng “địa linh, nhân kiệt” thì cũng không sai. Nơi đây là một vùng đồi núi chập chùng, suối ngàn, thác bạc nên thơ, với những rừng thông thơm ngát hương nhựa thông xanh, với những mặt hồ lung linh soi bóng mây trời, những dòng thác  bạc hùng vĩ, với những kỳ hoa dị thảo nở khắp bốn mùa, hơn nữa nơi đây còn có một quân trường nổi tiếng, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, đã đào tạo, hun đúc  không biết bao nhiêu là nhân tài cho đất nước, những người sĩ quan chỉ huy, trí dũng song toàn, những người lính quả cảm, can trường và bất khuất, mà trong đó có một người mang tên Tôn Thất Trân/K20

     Anh có còn nhớ không, những ngày xưa thân ái đó, nơi anh đã cùng các bạn trải qua những tuần đầu sơ khởi nhọc nhằn của người tân khóa sinh, để nếm mùi” thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Từng bước các anh đã làm quen với đời sống quân phong, quân kỷ, với những bữa ăn “vuông góc”, bật dậy theo tiếng kèn báo thức… Rồi dần dần, những đêm dạ hành, những phiên gác đêm, những lần được ra phố gặp gỡ bạn bè, và nhất là những giây phút êm đềm bên người con gái anh quen, dưới rặng thông xanh hay bên dòng thác bạc, đã cho anh cái cảm giác thấy mình trưởng thành hơn, chín chắn hơn và oai vệ hơn trong bộ jaspé hay worsted. Phải thế không anh?

       Thời gian hai năm trôi qua rất nhanh, dù với một khuôn mặt rất trẻ cùng cái lon thiếu uý trên vai, nhưng bầu nhiệt huyết của người lính lúc nào cũng như sục sôi trong người, và, Thủy Quân Lục Chiến là binh chủng đầu tiên được anh chọn để gia nhập sau khi ra trường, đây cũng là một trong những binh chủng nổi danh thiện chiến của Quân Lực VNCH. Cuộc đời binh nghiệp của anh bắt đầu từ bấy giờ, người chiến sĩ này rày đây, mai đó đã đi theo đơn vị trong những cuộc hành quân ở khắp mọi miền đất nước:

Người trai trẻ khoác áo xanh rừng núi

Anh mang danh người lính chiến Cộng Hòa

Yêu quê hương anh chẳng ngại xông pha

Nơi chiến tuyến đối đầu ngăn bước gịăc

Người lính đó, dù gió mưa cũng mặc

Quyết giữ yên bình cho xứ sở quê hương

Chiến thắng lẫy lừng vang dội bốn phương

Nào Tống lê chân, Hạ Lào, Đức Huệ

Nào Cổ Thành, nào Bình Giả, Đức cơ

Nơi anh đi mầu khói súng phủ mờ

Những người lính của bốn vùng chiến thuật…

                            (Vì anh là lính - Tường Thúy)

      Bước chân của người lính trẻ Tôn Thất Trân đã cùng với những đơn vị ĐĐ1/TĐ1/TQLC, ĐĐ2/TĐ7/TQLC, TĐP/TĐ7/TQLC, TP3/LĐ147/TQLC của mình, chiến đấu, mải miết hành quân qua bốn vùng chiến thuật như: Thung lũng Việt An, Quảng Tín - Rạch Cái Thìa Định Tường - Tết Mậu Thân 1968, GòVấp, Gia Định - Tết Mậu Thân Huế - U Minh Thượng, U Minh Hạ, Cà Mau - Vượt Biên Campuchia - Hạ Lào - Lam Sơn 719, Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa, Trận Đánh Cầu Bến Đá, Mỹ Chánh, Quảng Trị - Đổ Bộ Bờ Biển Mỹ Thủy, Quảng Trị - Chợ Sãi, Triệu Phong, Quảng Trị - Và sau cùng anh về Hậu nghĩa với cuộc hành quân An Ninh Lãnh Thổ Đức Hòa,Tiểu Khu Hậu Nghĩa, với chức vụ TĐT/TĐ327/ĐPQ/TK Hậu Nghĩa.(Lê Tấn Tài/K20). Không nơi nào là không hằn dấu chân anh. Và với những trận đánh oai hùng tiêu giệt giặc Cộng, những lần nằm gai nếm mật cùng với bạn bè, với đồng đội, những lần truy đuổi kẻ thù trong đêm tối hay trong mật khu của địch, hẳn anh đã thỏa mãn được trí tang bồng hồ thỉ của người trai thời chiến, đúng như ý nguyện của mình:

   “… Thích cuộc sống hào hùng, đầy nguy hiểm và thử thách trong tương lai.”

                                                                   (Tôn Thất Trân – Lưu niệm K20).

Có phải như vậy không anh?  Rồi nhất là trong trận đánh tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, một trận chiến hào hùng khét tiếng trong lịch sử chiến đấu cùa QLVNCH, mà báo chí ngoại quốc không ngớt lời khen tặng các quân binh chủng đã tham chiến, anh đã được vinh dự nhận Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, khi đã anh dũng cùng các đồng đội, cùng các binh chủng khác của QLVNCH, đánh bật giặc thù, chiếm lại Cổ thành và cắm lên đó lá cờ vàng bất diệt của Tổ quốc Việt Nam.

                          Cờ ngạo nghễ bay, Cổ Thành ghi dấu

                         Chiến tích oai hùng Quân Lực Việt Nam

                        Thuỷ Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù chiến đấu

                        Bên Biệt Động Quân anh dũng vô vàn

                                                                    Tường Thúy

Cố Thiếu tá Huỳnh Túy Viên                                               Cố Đại Úy Hoàng Đình Đạt

  Quận Trưởng Quận Đầm Dơi,

   Tỉnh Cà Mau

Chị Hoàng Đình Đạt đã kể cho tôi nghe về chồng mình trong dòng nước mắt đau thương, nhớ nhung người chồng đã khuất. Nếu như vợ của những người lính mà chồng của họ đã nằm xuống, đã hy sinh vì chính nghĩ, vì Tự Do của dân tộc, họ luôn hãnh diện về chồng mình, thì cũng như bao người vợ lính khác, trong sự thương đau chất ngất của chị, lời tâm sự nghẹn ngào ấy cũng luôn ẩn chứa một niềm kiêu hãnh về anh, về người lính Võ Bị/K20 của Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh,

       Chị luôn biết ơn những người bạn đồng khóa, đồng trường với Tình Tự Võ Bị ngày ấy, đã giúp chị tìm được xác chồng mình, còn bây giờ… chị không nói tiếp chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt đầy lệ và thở dài, tôi cũng đưa tay gạt nhẹ những giọt nước mắt, mà qua câu chuyện kể của chị, đã rơi xuống còn đọng trên má mình.Tôi cũng ngầm đồng ý với chị về những điều mình thấy, nhưng tôi cũng chỉ được phép cảm nhận, chỉ được buồn, mà không có quyền nói về cái Tình Tự Võ Bị, niềm kiêu hãnh của chồng mình.

         Dù không phải là người trong quân đội, nhưng là vợ của một người lính, tôi cũng hiểu được một phần nào sự gian khổ cùng cực của những người lính chiến đấu, thuộc mọi quân binh chủng của Quân Lực VNCH, bằng chính những cảm nhận, những tâm tư của mình, hay qua lời kể của những người thân, những người bạn trong quân đội, hoặc qua báo chí. Hơn nữa tôi cũng đã từng xem những phóng sự chiến trường trên truyền hình, cũng đã từng có những hồi hộp, những lo lắng khi theo dõi bước chân của các anh trong những trận chiến khốc liệt, dù rằng những lo lắng này, những hồi hộp này chỉ là một phần vạn, phần triệu những gì thật sự mà các anh đang phải đối mặt. Hình ảnh người lính chùm poncho nằm dưới cơn mưa tầm tã, hình ảnh đoàn quân đang lội một cách khó khăn trong những vũng lầy, nước ngập ngang lưng với khẩu súng dơ lên cao để bảo vệ vũ khí của mình, hay hình ảnh anh lính cõng người bạn bị thương trên lưng, đã làm lòng tôi xót xa, tê tái. Có nhìn thấy những làn đạn pháo, sáng rực trong đêm thay cho những đốm hỏa châu trong thành phố, hay hình ảnh các anh với quân trang, quân dụng đeo trên người, đứng dưới cái nắng gay gắt, để chờ chuyến trực thăng đổ bộ ra mặt trận, mới thấy sự hy sinh to lớn của các anh như thế nào, mới biết thương và cảm phục các anh như thế nào.Và trong đám người ấy biết đâu chẳng có người thân, có bạn bè cũa chúng tôi và biết đâu nữa đã chẳng có anh, anh Tôn Thất Trân. Rồi sau những chuyến trực thăng vận ra chiến trường ấy, hay sau những chuyến hành quân băng rừng, lội suối, đụng độ với quân thù, bất kể ngày hay đêm, ai sẽ là người còn, ai sẽ là kẻ mất, hay may mắn hơn, sẽ chỉ để lại một phần thân thể mình trên mảnh đất quê hương khốn khổ, đau thương vì chiến tranh này:

         “Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt bên bờ lau sậy này. Bây giờ anh ở đâu? Bây giờ anh ở đâu? Còn trên đời này, đang xông pha đèo cao dốc thẳm, hay đã về, về bên kia phương trời miên viễn chiêm bao…”

                          (Người tình không chân dung – Hoàng Trọng)

       Có ai không cảm thấy đau xót, không cảm thấy não lòng?

       Rồi khi các anh đang xông pha trên chiến địa, chiến đấu vì sự tồn vong của đất nước, vì sự an bình cho người dân, thì những người ở lại chỉ còn biết tự hỏi những câu hỏi xót xa đắng lòng:

       “Giờ này anh ở đâu Không quân vỗ cánh đại bang?Giờ này anh ở đâu Thủy Quân Lục Chiến kiêu hùng?Giờ này anh ở đâu vượt đường xa Thiết Giáp anh tung hoành?Anh ở đâu?…Anh ở đâu?

                                                       ( Giờ này anh ở đâu?- Khánh Băng)

       Và sẽ có mấy ai biết được câu trả lời là gì? Tất cả những người ở hậu phương chỉ có một ước nguyện nho nhỏ là nếu khi các anh đã nằm xuống, trong cuốn lịch sử của quân binh chủng mình, xin có một tờ dành riêng để đưa hình ảnh các anh dưới tiêu đề “Anh Hùng Tử Sĩ” hay “ Vị Quốc Vong Thân” với một hàng chữ be bé , như trên tấm mộ bia: Tên…Cấp bậc…Đơn vị…Tử trận: ngày…tháng… năm ...Tại… đơn giản thế thôi, để người thân các anh được an ủi rằng các anh cũng có mộ bia, không là “chiến sĩ vô danh”. Xin đừng để người đã nằm xuống vì Tổ Quốc, vì Quê Hương, vì Dân Tộc, phải tủi vong linh khi đã là người khuất mày, khuất mặt rồi nay lại phải khuất cả tên nữa. Mọi người rồi sẽ không còn nhớ đến các anh là ai, tên các anh sẽ bị mai một và ơn của các anh sẽ bị vùi lấp trong lãng quên. Có buồn lắm không? Thử hỏi trong chúng ta, có ai muốn mình trở thành kẻ vong ơn bội nghĩa với những người tử sĩ, đã hy sinh mạng sống của mình để cho dân chúng được sống an lành, cho quê hương được mãi mãi yên bình không??????

        Nhớ lại những ngày xa xôi ấy, đã có những lần tôi không ngủ được khi nghe trong đêm, tiếng bánh xe nhà binh chuyển quân chạy ngang thành phố. Tôi bước ra lan can, ngồi xuống thềm đá lạnh, nhìn những đoàn xe đi qua và cũng đã từng tự hỏi: Sau chuyến hành quân này, ai sẽ là người được trở về và ai sẽ vĩnh viễn ra đi bỏ lại sau lưng mình tất cả những thương yêu, những ràng buộc, những trách nhiệm, bỏ lại tất cả những ước mơ tươi đẹp, những khát vọng về một tương lai rực sáng.

                                             Những cuộc chia lìa khởi sự đây

                                          Cây đàn xum họp đứt từng giây

Sao nhà ga ấy, sân ga ấy

Chỉ để cho lòng dấu biệt ly

Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt

Buồn ở đâu hơn ở chốn này.

                                                           (Bóng người trên sân ga - Nguyễn Bính)

     Các anh có biết rằng ngày tiễn các anh ra đơn vị chiến đấu để bảo vệ quê hương, những người thân yêu của các anh đã đặt vào các anh niềm tin tuyệt đối, các anh sẽ chiến thắng và sẽ trở về. Họ hy vọng, họ đợi chờ ngày các anh trở về trong vòng tay thương yêu, trìu mến của người cha già, người mẹ yếu, người vợ trung trinh, của mọi ngưòi trong gia đình. Lúc đó, họ sẽ lắng nghe các anh kể về những trận đánh oai hùng của anh có tiếng đạn nổ, bom rơi, họ sẽ vui mừng khi các anh thoát được cái chết cận kề, cũng như họ sẽ xót xa, lo lắng về những vất vả, khổ sở, những hiểm nguy mà lúc nào cũng bủa vây các anh.

     Thế nhưng niềm hy vọng này, niềm tin này còn được bao nhiêu, hay chỉ còn lại những đau thương khi những vành khăn tang trắng được chít vội lên đầu họ, vì sự hận thù, sự khát máu, vô nhân của loài quỷ đỏ phương Bắc và …tôi đã buồn, đã khóc. Tôi khóc cho thân phận những người lính còn quá trẻ, trong đó có bạn bè, có người thân của chúng tôi.

Tôi đã nhớ đến bố chồng của tôi, cố Đại Uý Hà Quốc Ân, Phó Tỉnh Trưởng Nội An, tỉnh Quảng Ngãi. Bố tôi cũng đã anh dũng hy sinh trong một cuộc hành quân giải tỏa đồn Gia Vực, quận Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, khi tình nguyện chỉ huy thay thế cho vị Quận Trưởng bị bệnh bất ngờ, vào ngày 11/10/1961. Bố đã được truy tặng Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Lúc đó Bố tôi cũng còn rất trẻ và sự ra đi của Bố đã để lại bao thương tiếc,đớn đau cho cha già, mẹ yếu, cho người vợ trẻ và đàn con thơ, một sự mất mát to lớn mà không gì có thể bù đắp nổi, không gì có thể thay thế nổi.

     Cái tham vọng ngông cuồng vô nhân tính của loài quỷ đỏ CS Bắc Việt muốn thôn tính miền Nam theo lệnh Nga Sô,Trung Cộng, đã gieo không biết bao nhiêu là tang tóc thê lương cho người dân của miền Nam, và ngày 30/4/1975 đã thở thành một nỗi đau thương vô bờ bến của toàn dân miền Nam Việt Nam.

        Sau ngày 30/4 /1975 khi miền Nam hoàn toàn bị cưỡng chiếm, CSBV đã tắm máu người dân bằng những thủ đoạn đê hèn, tàn ác. Biết bao gia đình đã tan nát, đau thương bởi sự trả thù khốn nạn của bè lũ Cộng Sản khát máu, vô lương. Những đứa trẻ thơ vô tội đã phải mất cha, những người vợ trẻ đã phải mất chồng, cha mẹ già mất con, và gia đình cố Thiếu Tá Tôn Thất Trân cũng là một trong những gia đình phải chịu sự đau đớn, tang tóc này. Anh Tôn Thất Trân đã nằm xuống bởi sự hận thù hèn hạ của lũ giặc khát máu CS:

         “Giặc đã không dám công khai giết anh tại chiến trường, mà lén lút dẫn anh vào khu rừng dừa nước rậm rạp để hạ sát anh tại Bình Chánh, Gia Định ngày 1/5/1975. Mãi đến 32 năm sau gia đình mới tìm được xác “Anh hùng vị quốc vong thân”

                                          ( MX Tô Văn Cấp K19/TVBQGVN)

            Anh Tôn Thất Trân,  anh đã đi rồi, đi xa rồi, linh hồn anh bây giờ đang ở đâu, ở nơi vùng trời miên viễn xa xôi nào, anh có hay sự ra đi của mình đã làm tan nát trái tim người vợ trẻ, ngày đêm hằng mong ngóng bóng dáng anh trở về, và đứa con thơ, cháu Tôn Nữ Thanh Tâm mới được sáu tháng chưa một lần biết bập bẹ tiếng gọi cha, đã phải quấn vội trên đầu một mảnh khăn tang trắng, anh có nghe thấy tiếng khóc của họ không anh? Còn cha, còn mẹ, còn anh chị em, những người thân yêu của anh, họ đã phải đau đớn biết bao nhiêu về sự mất mát to lớn này, anh có hay gì không anh? Gia đình anh luôn luôn sẽ còn nhớ đến anh, nhớ tiếng cười, giọng nói, nhớ hình, nhớ dáng của anh, làm sao quên được đây? Bao giờ quên được đây?

       Bài thơ làm bằng máu lệ tự con tim của người chị khóc em mình, còn xót xa nào bằng:

                Tháng năm ngày giỗ chú Trân

                    Linh hồn của chú quyện cùng nước non

                      Ra đi khắp bốn phương trời

                  Miệng cười thỏa mãn, chí trai vẹn toàn

                      Anh hùng vị quốc vong thân

                  Đầy bầu nhiệt huyết không hàng địch quân

                      Đạn bay kết liễu tấm thân

                  Chú đành ngã gục, bãi bùn chôn thây

                      Thịt xương bón đất quê hương

                  Cỏ cây xanh tốt máu đào nuôi thân

                       Thương cho chú tuổi còn son

                  Mới ngoài ba chục hy sinh cuộc đời

                       Thắp hương ghi tạc tấm lòng

                  Gia đình nhớ chú người em trai hiền

                       Khói hương bay tỏa khắp phòng.

                  Hồn thiêng chú hãy hiện về thăm anh.

                                                                       (Khóc em -  Chị Bầu Trai)

          Mất anh, gia đình anh mất đi một người con hiếu thảo, một người em thân yêu, một người chồng yêu dấu, một người cha gương mẫu, bạn bè anh đã mất đi một người bạn hiên ngang, bất khuất và tổ quốc mất đi một cánh tay bảo vệ đất nước, quả cảm, can trường như anh.

         Biết nói gì đây khi anh đã ra đi rồi, vâng nay anh đã xa rồi, đã ngàn thu vĩnh biệt với trần gian, bây giờ những gì thuộc về anh trên cõi đời này, anh đã rũ bỏ tất cả để thảnh thơi về miền vĩnh phúc. Những chiến công, những huy chương, tình yêu, hận thù, tất cả chỉ là phù du, ảo ảnh mà thôi. Có còn chăng chỉ còn là những ký ức, những kỷ niệm, ở trong tận cùng tâm hồn của mọi người, về anh, về một hình bóng thân yêu ngày nào, mà không bao giờ xóa mờ được. Anh sẽ sống mãi trong lòng những người yêu mến anh, bạn bè của anh. Tên của anh rồi sẽ luôn được ghi nhớ, sẽ chẳng bao giờ trôi vào trong lãng quên đâu anh, người anh hùng Tôn Thất Trân.

 

                           Nhưng rồi thanh sử thêm trang nữa

                           Anh đã ra đi giữa núi đồi

                           Bao kẻ tiếc thương người tử sĩ

                           Em về đau đớn mãi không vơi

                                            ****

                           Thôi hãy ngủ yên dưới mộ phần

                           Chiều nay chợt dậy nỗi bâng khuâng

                           Tóc tang ngày ấy chưa mờ xóa

                           Em gọi tên anh mấy vạn lần

                                                                      (Gửi người dưới mộ - ViVân)

 

        Xin cho một lần được nói lời vĩnh biệt cùng anh, dù có hơi muộn màng. Ngoài những người thân, bạn bè của anh, chúng tôi, những người được biết anh vào thời khắc này cũng sẽ không bao giờ quên tên anh, cố Thiếu Tá Tôn Thất Trân, người anh hùng của toàn dân VN. Anh xứng đáng nhận được sự trân quý này của mọi người, sự tiếc thương này của mọi người. Xin hãy an nghỉ và xin nguyện cầu cho anh linh của anh được thanh thản nơí cõi Thiên Đường thênh thang.

         Tiếng hát của người ca sĩ vang lên từ một đĩa nhạc, nghe thật buồn, để lòng mình chợt thấy như chùng xuống:

         “ …Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên, tiễn đưa nhau trong một ngày buồn,  đất ôm anh đưa về cội nguồn, rồi từ đó, trong trời rộng đã vắng anh, như cánh chim bỏ rừng, như trái tim bỏ tình, nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không….

         Thôi xin đành khép lại ở đây, vì nếu tiếp tục, tôi sẽ khóc mất….Ngoài trời hình như sắp mưa, và có thể cơn mưa này sẽ dai dẳng.

                                            

                                                             Tường Thuý- Tucson – AZ - 2016