Kỹ sư Thủy Lâm Tôn Long Bình gọi pháp môn của ông Nhất Hạnh là “pháp môn làng…mai”, sở dĩ sau từ ngữ “làng” có 3 dấu chấm vì tiền thân của làng mai là làng hồng . Từ ngữ “hồng” làm người ta liên tưởng đến Cộng Sản như Hồng Kỳ (cờ đỏ) , Hồng Quân Liên Sô , Hồng Vệ Binh của Trung Cộng. Vả lại hoa hồng là hoa của giai cấp giàu sang trưởng giả, không được phổ thông trong tầng lớp dân chúng bình dân như hoa mai , nhất là lập trường chính trị thiên Cộng Sản quá lộ liễu của ông Nhất Hạnh làm người ta “né tránh” gia nhập làng hồng.
Người viết chỉ sử dụng 3 chữ PHÁP MÔN LÀNG là cố ý để người đọc hiểu sao cũng được , người đọc cũng có thể suy diễn phần nói lái của 2 chữ MÔN LÀNG là hiểu ngay cuộc đời tình ái của ông Nhất Hạnh. Tuy nhiên cuộc tình bất bình thường của cặp đôi Nhất Hạnh – Cao Ngọc Phượng không phải là trọng điểm của bài viết này, người viết chỉ nêu ra sự kiện để người đọc biết được những điều mà họ không bao giờ công bố hay thừa nhận khiến cho những độc giả cỡ dưới 40 – 50 tuổi không hề biết.
Cao Ngọc Phượng là người Việt có quốc tịch Pháp, có thời gian đi dạy Pháp Văn ở các trường trung học ở Phan Thiết những năm 1963- 1966. Thời gian Viện Đại Học Vạn Hạnh mới thành lập vào năm 1964 (danh xưng ban đầu là Cao Đẳng Phật Học do Thích Nhất Hạnh lãnh đạo), vì Thich Nhất Hạnh không có văn bằng Tiến Sĩ nên chức Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh phải giao cho Thượng Tọa Thích Minh Châu du học từ Ấn Độ mới về nước đảm trách. Lúc đó Thich Nhất Hạnh chỉ còn làm Giám Đốc Trường Phụng Sự Xã Hội mà thôi, và Cao Ngọc Phượng gặp Thích Nhất Hạnh trong môi trường này. Năm 1966, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vỡ làm 2, Thích Trí Quang và một số nhà sư di chuyển về chùa Ấn Quang hoạt động nên giới báo chí thường gọi là Khối Ấn Quang, còn Thượng Tọa Thích Tâm Châu – đương kim Viện Trưởng Viện Hóa Đạo vẫn ở lại trụ sở Việt Nam Quốc Tự nên giới báo chí thường gọi là Khối Việt Nam Quốc Tự.
Biến cố Phật Giáo đồ xuống đường lần thứ hai tại Sài Gòn xảy ra cùng lúc với Biến Động Miền Trung 1966 tại Huế và Đà Nẵng khiến nguy cơ “ Ly Khai “ có cơ hội xảy ra. Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan (kiêm nhiệm 3 chức vụ quan trọng như là Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Cục Trưởng Cục Trung Ương Tình Báo và Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia ( Đại Tá Phạm Văn Liễu vì là đàn em của Tướng Nguyễn Chánh Thi nên ông từ chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát và trao lại cho Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan). Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan tình nguyện ra Huế “dẹp loạn Miền Trung” vì không có Tướng Lãnh nào muốn ra Huế để “bị cháy”. Sau khi dẹp tan đám phản loạn, bắt giữ nhân vật chính là Thích Trí Quang đem nhốt trong Nha An Ninh Quân Đội trên góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồng Thập Tự, rồi sau đó Thích Trí Quang bị giam lỏng tại Bệnh Viện tư nhân của Bác Sĩ Nguyễn Duy Tài trên đường Duy Tân thì phong trào chống đối chính quyền Sài Gòn “xẹp lép”. Lúc chưa di chuyển về chùa Ấn Quang, Thượng Tọa Thích Tâm Châu – đương kim Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đã được báo cáo về mối tình “vụng trộm” của Đại Đức Thích Nhất Hạnh và cô sinh viên Cao Ngọc Phượng nên Viện Hóa Đạo mới dàn xếp để Thích Nhất Hạnh sang Pháp hầu tránh cho Phật Giáo Việt Nam bị mang tiếng xấu.
Trong trận Tổng Tấn Công của Việt Cộng vào năm 1968, lực lượng Cảnh Sát của Tướng Loan tấn công vào chùa (tôi quên mất tên) đang dung chứa VC, vài tên VC bị hạ sát và Cao Ngọc Phượng và Nhất Chi Mai chỉ bị thương nhẹ. Nhận thấy tông tích đã bị lộ, Cao Ngọc Phượng vì có quốc tịch Pháp đã rời Việt Nam sang Pháp tái hồi với Nhất Hạnh. Điều đáng trách ở đây là Thích Nhất Hạnh có vợ có con nhưng không “cởi bỏ áo tu trở về đời thường” mà tiếp tục “bịp và lường gạt phật tử bằng cách từ bỏ họ Thích và tự xưng là Thiền Sư Nhất Hạnh. Lại còn tổ chức quy y và gán cho Cao Ngọc Phượng pháp danh Chân Không đồng thời trao y bát sư cô cho Cao Ngọc Phượng (ông bạn của tôi đi du học Pháp từ năm 1968 nói rằng sư cô Chân Không vẫn còn trinh ở “lỗ rốn”. )
Để tránh tiếng bôi bác Phật Giáo, Nhất Hạnh sáng lập ra môn phái “Tiếp Hiện” nói rằng người tu theo môn phái Tiếp Hiện có quyền lấy vợ có con như các thiền sư bên Nhật nhưng không có bất cứ chức sắc nào của Giáo Hội Phật Giáo chấp nhận lối lý luận bá láp nói lấy được của cặp vợ chồng Nhất Hạnh – Chân Không vì Thái Tử Tất Đạt Ta đã từ bỏ gia đình vợ con cùng ngôi vua để “xuất gia” tầm đạo, còn Nhất Hạnh đi tu từ nhỏ được học bổng đi Hoa Kỳ thành đạt rồi “nhập gia” để có gia đình vợ con, tức là đi ngược đường tu trì của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đã thế Nhất Hạnh còn mưu toan không gọi danh xưng Phật, mà y gọi là Bụt và Đạo Bụt để thay thế Đạo Phật. Nhưng âm mưu này không thành công vì chính y cũng chỉ giảng về kinh điển của đạo Phật chứ chưa bao giờ bá tánh nghe y nói về kinh điển của Đạo Bụt !!! ( Có lẽ đơn độc một mình nên Nhất Hạnh không thể “sáng tạo” ra bất cứ tài liệu nào của Đạo Bụt để thay thế cho bộ Kinh TAM TẠNG của Phật Giáo)
Chú thích : bộ kinh TAM TẠNG bao gồm
A.-Phật Tạng (các đệ tử ghi lại lời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng đạo)
B.- Luận Tạng (các lời bình luận của các học giả về Đạo Phật từ xưa đến nay) và
C.- Luật Tạng (giới luật của Phật Giáo dành cho các tu sĩ nam và nữ cũng như giới luật của các cư sĩ).
Trong Luật Tạng chắc chắn không có Thiền Sư và Pháp Sư là 2 giới mặc quần áo tu sĩ mà lại có vợ có con như Nhất Hạnh và Giác Đức.
Về mặt danh xưng, Nhất Hạnh tự xưng là phái Tiếp Hiện, nhưng về mặt thực tế rất nhiều phật tử đã gọi Nhất Hạnh là sáng lập viên của Pháp Môn thứ 84,001 có tên là PHÁP MÔN SỤP LỖ.
Để được chính danh gọi là phật tử, tất cả mọi người phải thông qua thủ tục QUY Y TAM BẢO và tuyên thệ tuân thủ NGŨ GIỚI. Quy y Tam Bảo là Quy y Phật – Quy Y Pháp – Quy Y Tăng, cho nên Nhất Hạnh không phải là Tăng, do đó chức vị “sư cô” của Cao Ngọc Phượng không có giá trị pháp lý và cũng không có giá trị luân lý. Ngũ Giới là gì ? Đó là 5 giới cấm mà người phật tử không được phép làm :
1) Cấm tà dâm
2) Cấm nói láo (vọng ngữ)
3) Cấm sát sinh
4) Cấm trộm cướp
5) Cấm uống rượu và sử dụng ma túy
Ông thầy Nhất Hạnh “tằng tịu” với sinh viên Cao Ngọc Phượng ngay từ hồi 1964-1965 khiến Viện Hóa Đạo phải đẩy ông đi Pháp để tránh tiếng, đó là Nhất Hạnh vi phạm giới cấm tà dâm. Liên tiếp nhiều lần nói láo (vọng ngữ) như vu oan cho Không Quân Hoa Kỳ bỏ bom giết 300 ngàn dân chúng Bến Tre và vu cáo không quân Hoa Kỳ dùng trực thăng Hoa Kỳ bắt đàn bà con gái Việt Nam lôi lên trực thăng để hãm hiếp, đó là Nhất Hạnh can tội vọng ngữ.
Với 2 trọng tội đã nêu, Nhất Hạnh không xứng đáng được gọi là “phật tử” huống hồ tới khi qua đời mà vẫn còn có kẻ xưng tụng là “thầy Nhất Hạnh” thì đủ tỏ liêm sỉ và danh dự của những kẻ đó đúng như sự đánh giá của Mao Trạch Đông : “ Trí thức khoa bảng không đáng giá bằng cục phân”.
Đức Phật Thích Ca nêu ra 3 tiêu chuẩn BI -TRÍ – DŨNG để dạy cho phật tử làm quyết định “xử thế” trong đời sống hàng ngày. Chúng ta cùng nhau suy xét từng đề mục để đánh giá con người của Nhất Hạnh ở thang điểm nào ?
Tiêu chuẩn BI Nhất Hạnh chỉ đạt có 25% vì Nhất Hạnh chỉ khoác mồm kêu gọi Hoa Kỳ phải nương tay với những kẻ chống phá Hoa Kỳ như Việt Cộng, như bọn quá khich Al Quaida trong khi không bao giờ lên án Trung Cộng giết hại quần chúng Tây Tạng, không bao giờ lên án Trung Cộng đã thi hành diệt chủng đối với sắc dân Ughur ở Tân Cương, không bao giờ lên án Trung Cộng đã xâm lăng VN qua việc cưỡng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, không bao giờ thấy Nhất Hạnh lên án kết tội Khmer Đỏ đã diệt chủng 3 triệu dân chúng Cambodia hồi những năm 1975 – 1980, cũng không thấy Nhất Hạnh lên án nhà cầm quyền Trung Cộng tàn sát sinh viên và dân chúng Trung Hoa lục địa trong biến cố Thiên An Môn hồi mùa thu năm 1989. Xa xa hơn chiến tranh ở Irak với cảnh phiến quân Hồi Giáo hành quyết các phần tử chống đối bọn chúng, người ta cũng không thấy Nhất Hạnh lên tiếng. Có thể Nhất Hạnh sợ các sát thủ Hồi Giáo tìm đến Làng Mai cắt đầu ông ta hay Nhất Hạnh đang mắc bận “bế môn tọa thiền” nên không biết các việc nêu trên chăng ? Cũng có thể Nhất Hạnh bị “stroke” nên không nghe không thấy vì không xem TV chăng ?
Về tiêu chuẩn TRÍ, người viết có thể thẩm định Nhất Hạnh là kẻ hoàn toàn bất TRÍ mặc dù ông ta thông thạo Anh, Pháp, Việt ngữ…Cũng tương tự như các lãnh đạo của Việt Cộng dù có thành tích kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản huấn luyện kỹ càng nhưng các cấp lãnh đạo của Việt Cộng và Nhất Hạnh không hề hiểu người Mỹ và chính phủ một chút nào hết, dẫn chứng :
1)Ngay từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa chấm dứt, Hồ chí Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố độc lập, nhưng không được quốc gia nào công nhận và ủng hộ (kể cả Liên Sô cũng không công nhận VNDCCH)
2) Khi Mao Trạch Đông đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan, quân Việt Minh được Mao Trạch Đông yểm trợ hết mình, đánh thắng quân đội Pháp vùng biên giới Hoa Việt như Cao Bằng, Lạng Sơn, Đông Triều, Hải Ninh…sắp sửa tiến về Hà Nội thì các cấp lãnh đạo của Việt Cộng không hiểu tại sao Hoa Kỳ viện trợ quân viện cho quân đội Pháp đánh quân Việt Minh tan tác.
3) Mãi tới 20 tháng 7 năm 1954, quân đội Pháp thua trận Điện Biên Phủ phải rút về Pháp nhưng quân Việt Minh chỉ được cai quản phần đất từ vĩ tuyến 17 trở ra mà không thể dành được quyền kiểm soát toàn thể nước Việt Nam.
4) Hiệp Định Geneve 1954 chỉ thuần túy là Hiệp Định Ngưng Bắn giữa quân đội Liên Hiệp Pháp và quân Việt Minh nên không có điều khoản nào bắt buộc chính phủ Pháp phải bồi thường chiến tranh cho VNDCCH (như trong Hiệp Ước Versailles 1918, nước Đức thua trận phải bồi thường chiến tranh cho nước Pháp)
5.Vì không chiếm được toàn thể Việt Nam, nên Hồ chí Minh phải thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và mở “đường mòn Hồ chí Minh” song song với biên giới Lào – Việt chạy suốt qua Cambodia để đem người và vũ khí vào xâm lăng VNCH, gây ra cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai từ 1960 đến 1975.
6) Khi thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và đem quân đội cũng như vũ khí quân trang quân dụng cất dấu tại các chiến khu quanh Sài Gòn như chiến khu C, chiến khu D, chiến khu Tam Giác Sắt, chiến khu Dương Minh Châu, mật khu Bời Lời, mật khu Hát Dịch…Tướng Võ Nguyên Giáp và Ban Tham Mưu Chiến Lược của Bắc Việt không hề biết những vũ khí mới của quân đội Hoa Kỳ như “hàng rào điện tử Mac Namara”, như pháo đài bay B-52 với kỹ thuật thả bom chùm từ trên cao độ 4,000 mét mà quân Bắc Việt không thể có súng cao xạ để bắn tới. Chính các loại vũ khí vừa kể đã phá hủy và chôn vùi biết bao kho tàng vũ khí chôn cất trong các mật khu vừa nêu, cho nên sau khi quân đội Mỹ vào VN sau tháng 3 /1965 do lời mời của Thủ Tướng Phan Huy Quát, quân chính quy Bắc Việt không còn khả vây hãm Sài Gòn và các thành phố lớn được nữa. Các trận đụng độ nếu có chỉ là “chớp nhoáng ngắn ngày” rồi phải rút chạy vì chiến đấu lâu ngày, quân Bắc Việt không thể được tiếp viện từ các mật khu được nữa.
7) Các cấp lãnh đạo của Việt Cộng không thể hiểu tại sao Hoa Kỳ có 01 triệu quân hiện dịch mà Tổng Thống Johnson lại đem tới 550,000 quân vào Việt Nam. Tin tình báo của Hoa Kỳ cho biết là cán bộ của Trung Cộng sắp sửa chiếm được chính quyền của Indonesia nên số quân đem vào VN để dự phòng phải dùng đến khi cần. Hoa Kỳ đã bí mật sử dụng Tướng Suharto đảo ngược tình thế với kết quả là hơn ½ triệu cán bộ Cộng Sản của Indonesia bị tiêu diệt trong vòng 01 tuần lễ. Do đó số quân nửa triệu phải rút về vì quá tốn kém : Hoa Kỳ tham chiếm thực sự tại VN vào tháng 3/1965 vậy mà 2 năm sau đã nổi lên phong trào phản chiến, cá nhân người viết cho rằng phong trào phản chiến là do chính CIA bày binh bố trận để có “chứng cớ coi được” hầu dễ dàng được dân chúng Hoa Kỳ hậu thuẫn. Dẫn chứng : Hoa Kỳ tham chiến tại Trung Đông từ 2003 dưới thời Tổng Thống Bush con cho đến năm 2019 dưới thời Tổng Thống Trump là 16 năm , chúng ta chớ hề thấy phong trào phản chiến nào cả cũng chẳng thấy biểu tình trong nước Mỹ với khẩu hiệu “American go home” như hồi 1968- 1969.
8) Theo thói quen hành xử của các nhà quản trị Hoa Kỳ, cá nhân người viết dự đoán rằng khi đem nửa triệu quân vào Việt Nam, các nhà lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ đã có resolution cho chiến tranh Việt Nam, đó là họ sẽ để cho “chiến tranh tàn lụi”. Nhưng các cấp lãnh đạo của VC ngu quá nên cứ theo đuổi chiến tranh khiến cho 3-4 triệu thanh niên miền Bắc “biến mất” khiến cho đến nay 47 năm sau khi ngưng tiếng súng, Việt Nam vẫn không ngóc đầu lên được. Nhất Hạnh và các khoa bảng thân Cộng không bao giờ chất vấn bọn lãnh đạo VC là tại sao Đức và Nhật tổn thất nhân mạng trong đệ nhị thế chiến lớn hơn tổn thất của VN nhiều mà tới 1965 cả 2 nước này đã bước lên hàng cường quốc, trong khi VN gần 50 năm sau khi ngưng tiếng súng vẫn đứng lẹt đẹt sau chót thua cả Cambodia và Lào nữa.
9) Người viết dùng chữ “ biến mất” vì dân chúng miền Bắc đặt vấn đề tại sao người Mỹ vẫn tiếp tục đi tìm xương cốt của các quân nhân Mỹ tử trận từ 40 – 50 năm trước mà sao Bộ Quốc Phòng Quân Đội Nhân Dân không đi tìm hài cốt của bộ đội ta ? Câu trả lời thật là phũ phàng : bộ đội ta trúng bom của B-52 tan thành tro bụi ngay lúc trúng bom thì làm gì còn xương cốt để mà tìm. Sao Nhất Hạnh không bỏ tiền ra đăng báo New York Times để giúp nhà nước Cộng Sản đòi chính phủ Hoa Kỳ bồi thường nhân đạo cho 3- 4 triệu bộ đội Cộng Sản (dĩ nhiên giúp đỡ cho thân nhân còn lại của những bộ đội đã khuất, hay là Nhất Hạnh sợ tiền bồi thường “nhân đạo” sẽ rơi vào bọn có chức có quyền ?)
10) Ngay trước khi ký kết Hiệp Định Paris 1973, Lê Đức Thọ đòi hỏi Kissinger phải cắt đất chia phần nhưng Kissinger bác bỏ vì Hoa Kỳ không có chủ quyền trên đất đai của VNCH, Lê Đức Thọ cay đắng nhận ra rằng BV đã bị Hoa Kỳ lừa gạt vì Kissinger tuyên bố không đòi hỏi quân ngoại nhập phải rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam, nhưng quân Bắc Việt chỉ chiếm được những vùng hoang vu không có dân chúng và cũng không có hạ tầng cơ sở nên phải đem nguyên vật liệu cũng như vũ khí từ ngoài Bắc vào nuôi đám quân này. Ngụ ý chắc Kissinger muốn nói là quân đội Hoa Kỳ đơn phương rút lui thì quân Bắc Việt cũng tự dộng lui quân về Bắc thì chiến tranh Việt đương nhiên tàn lụi mà không cần phải ký thêm hòa ước nào nữa ( Nên nhớ là Hiệp Định Paris 1973 cũng chỉ là Hiệp Định Ngưng Bắn mà thôi, không phải là một Hòa Ước nên Hoa Kỳ không phải là thua trận nên không có bổn phận bồi thường chiến tranh).
12) Sau năm 1973, vì được Liên Sô xúi bẩy và viện trợ thêm vũ khí nên Lê Duẩn phát động chiến dịch Hồ chí Minh để tiến chiếm miền Nam vào ngày 30-4-1975, hí hửng hô hoán là VC đã hoàn toàn giải phóng miền Nam, đánh đuổi Đế Quốc Mỹ ra khỏi đất nước nhưng quên là Mỹ sẽ không “viện trợ tái thiết Đông Dương 3 tỷ dollars – đã ghi trong điều khoản 21B trong bản Hiệp Định Paris 1973” vì chính VC đã vi phạm thỏa ước và tiếp theo là 10 năm “cấm vận”. Cũng không thấy Nhất Hạnh và ban lãnh đạo của VC đòi kiện Hoa Kỳ ra trước tòa án La Haye gì cả (cho đến khi mãn phần Nhất Hạnh vẫn chưa hiểu tại sao Hoa Kỳ vẫn chưa bồi thường đồng xu cắc bạc nào cả)
Vì TRÍ không có nên Nhất Hạnh cũng không có DŨNG CẢM nhìn nhận ông ta sai lầm. Nhất Hạnh được đám phản chiến thổi ống đu đủ chứ trong thực tế ông ta không thể có tầm vóc và nổi danh như Jean Paul Sartre. Sau năm 1975, Jean Paul Sartre có DŨNG LƯỢC đã cùng Raymond Aaron họp báo thú nhận là ông ta bênh vực Cộng Sản là sai lầm và xé bỏ thẻ đảng viên đảng Cộng sản Pháp, sau đó Đảng Cộng sản thoái trào và bây giờ không kiếm nổi 2 ghế trong nghị viện Pháp khiến không còn được coi là một chính đảng có sinh hoạt bình thường.
Ngày chủ nhật 23 Jan/2022 người viết có ra THÔNG BÁO như sau :
Chúng tôi vừa mới hay tin Pháp Chủ Nhất Hạnh, nguyên sang lập viên Pháp Môn thứ 84,001 mang danh xưng là PHÁP MÔN SỤP LỖ vừa mới mãn phần.
Ông Nhất Hạnh :
*đi từ Cõi Cực Lạc tại chùa Từ Hiếu – thành phố Huế
*đến nơi thường trú ở Cõi Cực Khổ tại Niết Bàn có “định hướng XHCN”
Tại nơi Cực Khổ, ông Nhất Hạnh chắc chắn được 2 người nồng nhiệt đón chào, đó là Bồ Tát Hồ chí Minh và “Anh Năm Condom” (2 người này được ông Nhất Hạnh ngưỡng mộ từ lâu).
Xin nhắc nhở với bà con cô bác đệ tử của ông Nhất Hạnh, xin soát xét lại xem cá nhân đã có giấy giới thiệu để lên Cõi Cực Khổ hay chưa, nếu chưa có xin cố gắng liên lạc với bà Chân Không Cao Ngọc Phượng ngay lập tức, kẻo không kịp.
Nay bố cáo
Ghi chú : từ năm 1982, Lê Duẩn chỉ định Võ Nguyên Giáp làm Phó Thủ Tướng Đặc Trách Kế Hoạch Hóa Gia Đình, nên dân chúng gọi Võ Nguyên Giáp là Anh Năm Condom .
Hoàn tất vào ngày thứ tư 26 tháng giêng năm 2022 tại San José