Sau bốn mươi lăm năm xa xứ, ông trở về thăm làng lần đầu. Nghe nói ông là Việt kiều Mỹ rất giàu và đang có ý định làm từ thiện lớn nên người ta rất quan tâm và chào đón thái quá, đôi khi khiến ông thấy bất tiện. Ngay trong buổi tiếp đầu tiên do trưởng thôn tổ chức, có cả bí thư chi bộ và đại diện thanh niên, phụ nữ, ông bí thư đảng nói không úp mở: “Trước làng ta có Chùa Mít. Chắc bác còn nhớ? Chiến tranh phá mất rồi. Mà đền chùa là cái mặt văn hóa của làng. Giờ có điều kiện xây lại thì tốt quá.” Ông còn nhớ không ư? Vì nó mà ông phải xa làng chừng ấy năm. Số là thời ấy, tức giữa những năm sáu mươi, ông là bí thư xã đoàn.
Một hôm, người ta đi họp trên huyện về, giao cho thanh niên phá Chùa Mít. “Làng đã lên hợp tác xã, ruộng đất và tư liệu sản xuất trở thành của chung. Nay đến lượt xây dựng văn hóa mới. Nhà nước vô sản. Làng phải là làng vô thần. Không thể để cái chùa mê tín dị đoan ấy đứng mãi thế được!” “Nhưng đó là chỗ lễ bái, tín ngưỡng của dân làng?” ông rụt rè lên tiếng. “Vả lại, có để cũng chẳng hại gì”. “Không được. Đồng chí nói thế là chưa quán triệt tinh thần của trên. Người cộng sản vô thần, nên không thờ bất kỳ ai ngoài các lãnh tụ của mình!”
Một tuần sau ông lên đường vào Nam, dù không thuộc diện nhập ngũ vì là cán bộ cốt cán và là con một trong gia đình. Trước đó mấy ngày người ta bắt đầu đập phá Chùa Mít, có cả lễ ra quân và cờ trống rầm rộ. Ở mặt trận Tây Nam năm 1972 ông bị quân Sài Gòn bắt nhưng trốn được qua Cămpuchia, rồi Thái Lan và năm 76 thì được sang Mỹ định cư. Trước khi có thư từ Mỹ về, mọi người trong làng nghĩ ông đã chết, nhưng do không xác định được cụ thể, người ta không coi ông là liệt sĩ, giờ thì đương nhiên là một tên đào ngũ phản bội. Còn nay đổi mới, trong con mắt của mọi người, ông là Việt Kiều yêu nước.
Bố mẹ chết từ lâu, bà con thân thích hầu như chẳng còn ai nên ông ở trong nhà nghỉ mới xây của xã bên, rất gần làng. Ở đấy cậu nhân viên nháy mắt bảo ông có cần gì nữa không. Mấy ngày sau ông còn nghe nói làng có dịch vụ tươi mát, đến mùa gặt mới phải thanh toán. Bằng thóc.
Làng ông bây giờ quả nhiều cái mới. No đủ hơn. Nhiều nhà ngói, thậm chí có vài nhà hai ba tầng, bắt chước kiểu biệt thự Pháp nhưng quét vôi màu lòe loẹt. Đường làng và các ngõ ngách đều đổ xi măng. Đình làng xưa cổ kính giờ được thay bằng Nhà Văn Hóa mái bằng lợp fibrô xi măng. Trên nền Chùa Mít đầu làng cỏ mọc um tùm, lổn nhổn những phiến đá lớn người ta không bê đi được. Có cả một khối đá tròn, phần sót lại của bức tượng Phật, nay làm nơi ngồi tình tự của đám thanh niên mới lớn. Dân làng bây giờ cũng khác lắm. Khác cả cách ăn mặc, đi đứng và ăn nói. Có vẻ như hiện đại hơn, tốt hơn, thế mà ông vẫn thấy trơ trơ thế nào, cứ như thiếu một cái gì đó.
Ở thêm mấy ngày nữa, ông hiểu cái đó là gì. Khuôn mặt của làng. Thì ngay từ đầu người ta chẳng bảo ông: “Đền chùa là cái mặt văn hóa của làng” đó sao? Chính xác hơn là thiếu hồn. Các tấm áp phích to và những câu khẩu hiệu chính trị viết cũng như nói không lấp nổi sự trống vắng tâm linh mà bây giờ đã không còn chỗ thể hiện. Trước kia ngày rằm, ngày đầu tháng người ta vào chùa thắp hương, sắm lễ. Giờ chỗ lui tới là quán rượu của mụ Bốn, người kiêm cả nghề ghi số đề cho mấy đại gia ngoài phố huyện.
Ông đi một vòng quanh làng với tâm trạng buồn buồn khó tả, rồi mỏi chân, ngồi xuống tảng đá, phần còn lại của Đức Phật trên nền Chùa Mít.
Mặt trời sắp lặn. Một chiếc Công Nông đang lại gần, kêu tành tạch từng tràng như tiếng súng đại liên. Kế đến là chiếc xe tải loại lớn chạy về phía xã trên. Mấy bà đi làm về, chiếc gánh tòng teng trên vai. Trai làng phóng xe máy vù vù.
Vậy là cái chủ trương xây làng vô sản đã không thành. Nhưng làng vô thần thì thành. Không chỉ không thờ Phật, giờ người ta cũng chẳng thờ các lãnh tụ cộng sản, không cần biết ai, sợ ai ngoài cái dạ dày của mình. Thêm một cái “vô” nữa là vô danh. Trước xã ông có bảy làng với bảy cái tên dung dị dễ thương từ xa xưa, sau khi thành lập hợp tác xã, chúng được thay bằng các con số đội sản xuất. Làng ông được gọi là Đội Bảy. Hợp tác xã giải tán cả chục năm nay mà cái tên khô khốc, vô hồn ấy vẫn còn đến ngày nay.
Ông ngồi lặng người hồi lâu như thế giữa nền Chùa Mit ở làng Đội Bảy của ông. Giờ người ta xin ông tiền dựng lại nó, tức là để phục lại phần nào thần linh và “mê tín dị đoan”, cái người ta một thời dứt khoát phá bỏ và đẩy ông ra nơi súng đạn. Nhưng liệu có chùa rồi, những cái ấy có trở lại không, khi tư tưởng vô thần và những người nghĩ ra chúng vẫn còn?
Trời tối lúc nào không biết. Có ai đó đang lại gần. Ông giáo Hoàn. Ông đang dắt con nghé con từ Đồng Chùa về. Ông giáo trạc tuổi ông, về hưu đã lâu và trước cùng học trường làng. Hôm mới về hai người đã gặp nhau và nói chuyện một lúc. Ông này thời cải cách có bố bị treo cổ oan.
“Vẫn chưa quyết định nên giúp làng xây lại chùa không à?” ông giáo hỏi như đoán được ý nghĩ ông.
“Theo ông thì thế nào?”
“Thì kệ nó. Ai phá, người ấy phải xây lại”.
“Nhưng họ biết lấy đâu ra tiền?”
“Đó là việc của họ. Rồi có ngày người ta sẽ bắt họ chịu trách nhiệm về chuyện này. Không người thì thần linh, mà cũng chẳng lâu nữa đâu. Một lũ ngu dốt và độc ác!”
Ông giáo về hưu nói một cách giận dữ. Rồi ông hạ giọng nói thêm:
“Nếu bác định giúp làng thì làm ơn sửa lại trường cấp một. Bảy tám chục đứa trẻ bị nhét vào một phòng tranh tre và dột nát như bác thấy. Chứ không thì cái làng này chẳng mấy chốc mà thành vô học.”
Hai hôm sau ông lên đường về Mỹ, để lại phía sau khu ngôi làng của ông - vô danh -, vô thần và gần như vô học. Có thể cả vô đạo đức và văn hóa nữa, dẫu hai đầu làng có hai tấm biển rất to :Làng văn hóa mới”, và nhà nào trong làng cũng có tờ giấy chứng nhận “Gia đình văn hóa”. “Thì ra cái ‘văn hóa mới’ là tập hợp tất cả các ‘vô ‘ ấy lại, ông nghĩ và khẽ rùng mình.
Thái Bá Tân