Lời Giới Thiệu: Viết một bài thơ để diễn tả tâm trạng hay để kể một câu truyện có hồn hay ý tưởng, thường là không đơn giản, và đòi hỏi một sự tập trung hay đôi khi cần đến sự xuất thần nhập vai nhân vật của tác giả. Viết thơ để kể chuyện lịch sử dân tộc lại càng khó thực hiện nếu người viết không mang một hoài bảo hay mong ước, khát khao đóng góp cho nền văn hóa nước nhà tại hải ngoại. Những giòng sử viết bằng thơ lục bát là thể thơ thuần tuý của người VN đã được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Sơn Đảo, với sự học hỏi về cách gieo vần trong ca dao, trong Kiều của cụ Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, và thể lục bát chấm xuống dòng của ông Bút Tre.
Bức Tranh Vân Cẩu kính mời quý vị độc giả cùng thưởng thức những giòng thơ sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Sơn Đảo.
(kỳ 3)
Thời gian cống phẩm trôi đi
Một vài năm nhẫn nhục thì cũng qua
Hán Cao Tổ đế băng hà (195 TCN)
Lâm phiên bà Lã hậu ra đoạt quyền
Nghe lời xàm tấu nhỏ nhen
Cấm thương buôn bán vàng điền khí kim
Bao ngày nuốt hận nằm im
Bỗng nay bà Lã hậu kìm kẹp thêm
Vũ vương bực tức trổi lên
Tự xưng hoàng đế ở miền Lĩnh Nam
Rồi đem binh mã tràn sang
Chiếm Tràng Sa quận danh vang nức vùng
Hán triều nổi giận đùng đùng
Đem quân sang đánh tranh hùng một phen
Đường xa thủy thổ không quen
Quân Tàu thảm bại ho hen kéo về
Vũ vương thanh thế trăm bề
Oai phong lừng lẫy cận kề trước sau
Đi đâu xe ngựa quân hầu
Làm theo nghi vệ vua Tàu kém chi
Đến khi bà Lã hậu thì (180 TCN)
Thác Văn đế kế trị vì Trung Hoa
Liền sai Lục Giả đưa qua
Thư khuyên Triệu Vũ vương hòa thụ phong
Đọc thư hoàng đế Tàu xong
Những lời tử tế xiêu lòng Vũ vương
Nay nhờ bệ hạ đoái thương
Lão phu dẫu có nát xương không màng
Đáp thư Lục Giả đưa sang
Triệu xin phụng hiến phẩm hàng thường niên
Một băm bảy trước công nguyên (137 TCN)
Vũ vương Triệu mất ngôi truyền đích tôn
Tên Hồ tức Triệu Văn vương
Tính tình nhu nhược tầm thường việc quân
Hồ làm vua được nhị xuân
Vua Mân Việt quấy phá dân biên thùy
Án binh không dám động gì
Sang Tàu cầu cứu hành vi khác người
Hán triều sai tướng Vương Khôi
Và Hàn Anh Quốc tới nơi biên thùy
Quân Mân Việt khiếp sợ uy
Giết vua đem thủ cấp đi hàng Tàu
Bình yên Mân Việt vua Tàu
Bèn cho Trang Trợ dụ chầu Văn vương
Nhưng đình thần cản khuyên lơn
Để Anh Tề thế phụ vương sang chầu
Anh Tề sống ở bên Tàu
Phải lòng Cù Thị nối cầu lương duyên
Một hăm lăm trước công nguyên (125 TCN)
Triệu Văn vương quá cố bên Tàu về
Lo cha an táng giữ lề
Lên ngôi cai quản Anh Tề xưng vương
Đặt niên hiệu Triệu Minh vương
Lập con Cù Thị tên Hưng kế quyền
Một mười ba trước công nguyên (113 TCN)
Triệu Minh vương chết Hưng liền xưng vương
Cải nguyên là Triệu Ai vương
Hán triều sai Thiếu Quý sang dụ chầu
Thỏa lòng mong đợi đã lâu
Người tình xưa gặp gỡ nhau nơi này
Lửa gần rơm bén chẳng hay
Tư thông thái hậu thẹn thay sứ Tàu
Cả hai ý hợp tâm đầu
Xúi Ai vương hiến cho Tàu nước ta
Bấy giờ tể tướng Lữ Gia
Can ngăn không được mới ra hịch rằng
Vua và Cù thái hậu dâng
Nước Nam cho bọn lân bang Hán rồi
Lữ Gia tụ tập mấy người
Bàn nhau đem cấm binh mời Ai vương
Sứ Tàu, Cù Thị giết luôn
Đoạn tôn Kiến Đức nối nguồn Triệu vương
Là con trưởng của Minh vương
Lên ngai niên hiệu Triệu Dương vương quyền
Một mười hai trước công nguyên (112 TCN)
Có quan thái phó tôi hiền Lữ Gia
Phò vua giữ nước non nhà
Vua nhà Hán giận sai Hàn Thiên Thu
Đem quân sang đánh báo thù
Lữ Gia đón chém Thiên Thu trận tiền
Nhận tin Hán Vũ vương truyền
Tướng quân Lộ Bác Đức miền Quế Dương
Tướng Dương Bộc huyện Dự Chương
Tướng quân Hạ Lại quận Thương Ngô cùng
Quân Qua Thuyền huyện Linh Lăng
Và quân Việt nước Dạ Lang năm miền
Chia thành năm đạo bộ thuyền
Tiến sang Nam Việt chiếm Phiên Ngung thành
Quân Nam Việt quyết phân tranh
Nhưng không chống nổi bỏ thành vào nam
Triệu Dương vương chạy dọc đàng
Hán quân đuổi bắt vua quan chịu hình
Nhớ xưa lâp quốc phân minh
Dân ta kiến tạo nước mình thăng hoa
Đến nay giặc cướp vô nhà
Ách tròng lệ thuộc dân đà khó yên
Một mười một trước công nguyên (111 TCN)
Non sông Lạc Việt rồng tiên ngậm ngùi
Vua Tàu nuốt nước Nam xuôi
Đổi Giao Chỉ bộ di dời mốc ranh
Phận ra làm chín quận thành
Bổ quan thái thú điều hành cơ ngơi
Thêm quan thứ sử trông coi
Lăng xăng giám sát mọi nơi dân lành
Riêng Giao Chỉ quận Tàu đành
Để quyền thế tập các quan Lạc mình
Tới đây sách sử làm thinh
Không ai viết lại dân tình ra sao
Một trăm bốn chục năm sau
Vào năm hăm chín sử Tàu mới ghi (29)
Là khi Vương Mãng cướp ngôi
Các quan Giao Chỉ không rời quận châu
Không thần phục cống phẩm Tàu
Đến khi Quang Vũ khởi màu trung hưng
Thì ông Đặng Nhượng, Tích Quang
Và ông Đỗ Mục mới sang cống chầu
Có hai quan thái thú Tàu
Trị dân nhân chính thuở đầu công nguyên
Một là thái thú Nhâm Diên
Dạy dân trồng lúa canh điền khẩn hoang
Còn người tên gọi Tích Quang
Hết lòng khai hóa dạy trang nghĩa tình
Cứ vào sách sử Hoa bình
Mặc dầu Bắc thuộc dân mình vẫn an
Thấy không chứng cớ để bàn
Nước Tàu pha chủng nhà Nam giống nòi
Xa xôi hiểm trở núi đồi
Hồ đầm sông suối ở đời Hán cai
Trí chưa hiểu biết về dài
Tâm còn gắn bó đoái hoài cố hương
Ông bà cha mẹ thân thương
Vợ con cô bác họ hường khúc nôi
Đến năm Kiến Võ thứ mười
Là năm băm bốn rạng ngời sử Nam (34)
Tên Tô Định thái thú sang
Bạo tàn dữ tợn gian tham thấu Trời
Tháng hai năm bốn mươi thời (40)
Giết Thi Sách thủ lĩnh người Châu Diên
Vợ ông Trưng Trắc thay quyền
Cùng em Trưng Nhị nổi lên chống Tàu
Đuổi Tô Định chiếm Luy Lâu
Các nơi hưởng ứng đứng sau hai bà
Tinh thần quật khởi vang ca
Lên đường đánh giặc cứu nhà lầm than
Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam
Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì
Giang sơn quằn gánh bước đi
Nam hoa họa dải biên thùy bình minh
Đóng đô ở đất Mê Linh
Xưng Trưng vương chú việc chinh chiến Tàu
Đúng như dự liệu lo âu
Cuối xuân tân sửu vua Tàu sai sang (41)
Phục Ba Mã Viện khôn ngoan
Mon men bờ bể làm đàng tiến quân
Phá rừng đục núi vác khuân
Tới vùng Lãng Bạc đụng quân vua bà
Hai năm giáp mặt can qua
Giặc Tàu mạnh ép quân ta rút về
Bài binh bố trận Cẩm Khê
Giặc vây thít chặt tư bề nguy nan
Quân ta yếu thế vỡ tan
Hai bà tuẫn tiết theo làn Hát giang (43)
Cuốn trong hồn nước sông Nam
Tấm gương Trưng nữ phá hàng ngoại xâm
Như trăng tỏa sáng đêm rằm
Ánh đăng soi lối thuyền dầm đêm mưa
Ba năm khởi nghĩa tranh đua
Vua tôi Quang Vũ sớm trưa ủ rầu
Đủ là để tiếng thơm lâu
Nữ anh hùng Việt đối đầu Hán vương
Đời đời con cháu tiếc thương
Xây đền ghi tạc thắp hương nhị bà
Ngày mồng sáu tháng hai ta
Hàng năm làm giỗ vua Bà nhớ ơn
Phục Ba thắng được Trưng vương
Đem Giao Chỉ bộ thuộc Đông Hán rồi
Khởi binh đánh dẹp các nơi
Đến đâu thành lũy cải đời xứ ta
Dập khuôn chính trị China
Dựng cây đồng trụ truyền là Cổ Lâu
Sáu từ bện lại khắc câu
"Cây đồng trụ đổ mất Giao Chỉ nòi"
Dân Nam phản ứng tuyệt vời
Mỗi lần hòn đá vun bồi lúc qua
Dần dần chỗ ấy lù ra
Núi Giao Chỉ phủ Phục Ba cột đồng
Mưu mô Mã Viện uổng công
Không còn ai biết trụ đồng ở đâu
Kể từ Mã Viện lòng đau
Dân lam lũ vất vả sầu khó phai
Lớp mò đáy biển ngọc trai
Lớp sừng tê giác ngà voi giữa rừng
Lê dân Hợp Phố khốn cùng
Nhọc nhằn tìm chốn tạm dung lánh nàn
Cơ hàn tay xách nách mang
Đắng cay chịu đựng khóc than ai màng
Cho nên trộm cướp lan tràn
Khổ càng tân khổ điêu tàn xác xơ
Quan cai trị cứ tha hồ
Tham lam độc ác vét vơ hại người.
(còn tiếp)
Nguyễn Sơn Đảo