Lời Giới Thiệu: Viết một bài thơ để diễn tả tâm trạng hay để kể một câu truyện có hồn hay ý tưởng, thường là không đơn giản, và đòi hỏi một sự tập trung hay đôi khi cần đến sự xuất thần nhập vai nhân vật của tác giả. Viết thơ để kể chuyện lịch sử dân tộc lại càng khó thực hiện nếu người viết không mang một hoài bảo hay mong ước, khát khao đóng góp cho nền văn hóa nước nhà tại hải ngoại. Những giòng sử viết bằng thơ lục bát là thể thơ thuần tuý của người VN đã được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Sơn Đảo, với sự học hỏi về cách gieo vần trong ca dao, trong Kiều của cụ Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, và thể lục bát chấm xuống dòng của ông Bút Tre.
Bức Tranh Vân Cẩu kính mời quý vị độc giả cùng thưởng thức những giòng thơ sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Sơn Đảo.
LỊCH SỬ VIỆT NAM QUA THƠ
(Tiếp theo kỳ trước - Kỳ 2)
Cùng thời vua Thục bên ta
Nhà Tần thống nhất China nắm quyền
Hai mười bốn trước công nguyên (214 TCN)
Thủy Hoàng nhòm ngó đất miền Lĩnh Nam
Sai Đồ Thư tướng chinh Nam
Đánh quân Bách Việt chiếm thành lấy dân
An Dương vương cũng phục Tần
Vua Tần sắp đặt quan quân chia làm
Quế Lâm quận hướng tây nam
Hướng đông quận thứ hai Nam Hải và
Hướng nam Tượng quận nước ta
Nhưng dân bản xứ tránh xa người Tàu
Giống dòng Bách Việt rủ nhau
Kéo vào rừng ở ít lâu quân Tần
Không quen thủy thổ suy dần
Tinh thần sa sút bịnh hành liên miên
Người dân Bách Việt nổi lên
Chém Đồ Thư chết Lâu Thuyền vỡ tan
Năm tân mão vận Tần tàn (210 TCN)
Thủy Hoàng thác bọn quyền thần nôn nao
Bấy giờ quan úy Nhâm Ngao
Quận Nam Hải muốn vươn cao cơ đồ
Chiếm Âu Lạc nhập dưới cờ
Lập nhà nước tự chủ bờ cõi Nam
Nhưng hoài bão lớn chưa làm
Úy Nhâm Ngao mất Triệu Đà phó thay
Rắp tâm đeo đuổi việc này
Dùng con Trọng Thủy ý bày thầm sâu
Cưới công chúa Thục Mỵ Châu
Dò la sự thể tình đầu nước ta
Nghĩ phò mã hỏi xuê xoa
Mỵ Châu vui miệng nói ra nỏ thần
Trúng ngay diệu kế hòa thân
Nào hay chồng tráo móng chân lẫy cò
Bo bo Trọng Thủy giả đò
Tôi về bên nớ âu lo cho nàng
Sợ mai chiến địa đôi đàng
Người nam kẻ bắc tìm nàng ở mô
Mỵ Châu lòng vẫn ngây thơ
Áo em lông ngỗng phòng hờ bên ni
Rứt lông em thử vận thì
Chàng đi lối ấy có chi buồn rầu
Giã nàng muôn dặm vó câu
Linh Quang Kim Trảo nỏ tâu Triệu Đà
Biết rành tình thế nước ta
Nhằm năm quý tỵ Triệu Đà cất quân
Thục vương cậy có nỏ thần
Đợi quân Triệu áp đến gần bắn qua
Không ngờ thua trí sui gia
Lẫy cò bị tráo nỏ đà hết linh
An Dương vương bỏ cung đình
Vội cùng công chúa bôn trình vào nam
Tới chân Mộ Dạ - Nghệ An
Kề nơi bờ biển khấn thần Kim Quy
Triệu Đà bám sát lâm nguy
Xin thần chỉ dẫn đường đi lánh nàn
Kim Quy báo ngã ba đàng
Mỵ Châu để dấu chồng nàng nga mao
Vua An Dương tức nghẹn ngào
Vung gươm chém Mỵ Châu nào được an
Nỗi niềm bào xé tâm can
Biển xanh Mộ Dạ - Nghệ An gieo mình
Nóng lòng Trọng Thủy xua binh
Ngựa phi kíp quá khắc tình phu thê
Gặp nhau trong cảnh não nề
Lặng ôm xác vợ trở về Cổ Loa
Sai người cấp táng hương hoa
Rồi ra nhảy giếng thành Loa theo nàng
Triệu Đà sao nỡ phũ phàng
Oái oăm tình sử bẽ bàng thiên duyên
Hai không bảy trước công nguyên (207 TCN)
Mưu gian Trọng Thủy thắng liền Thục vương
Triệu Đà xưng Triệu Vũ vương
Lên ngai cai quản một vùng phía Nam
Nước ta Nam Hải lân bang
Nhập thành Nam Việt hiên ngang vẫy vùng
Đóng đô ở đất Phiên Ngung
Ung dung việc nước dập khuôn mẫu Tàu
Tinh thần độc lâp phai mau
Chư hầu sau cũng gốc Tàu nở hoa
Tạm thời gác chuyện Triệu gia
Lướt xem phong kiến ngàn xa xưa Tàu
Mỗi châu một vị cầm đầu
Gọi là vua nước chư hầu địa phương
Phải thần phục cống Tàu vương
Mỗi đời số tiểu quốc thường khác nhau
Như vua Hạ hội chư hầu
Có hàng vạn nước đến chầu Đồ sơn
Khi nhà Chu thắng Trụ vương
Tám trăm cả thảy Vũ vương chia làm
Công Hầu Bá Tử và Nam
Bảy mươi người được vua ban chư hầu
Nước trăm dặm tước Công Hầu
Bảy mươi tước Bá tước cầu Tử Nam
Năm mươi dặm lại gia ban
Phụ Dung nước nhỏ hơn hàng Tử Nam
Nhà Chu quan chế sáu Quan
Mỗi Quan có sáu mươi quan đổ đồng
Là ba trăm sáu mươi ông
Địa Thiên Xuân Hạ Thu Đông lục dòng
Thái sư, phó, bảo tam công
Thiếu sư, phó, bảo tam cô đại thần
Để bàn việc nước an dân
Chứ về hành chính không can dự phần
Ân Chu pháp chế chặt chân
Đánh roi da xích tù nhân gọt đầu
Lăng trì mổ muối vạc dầu
Xé thây phơi xác bêu đầu .v..v...
Về binh chế của Chu quân
Năm người một Ngũ Ngũ nhân năm là
Hăm lăm một Lượng nhân ra
Một trăm là Tốt Lữ là năm trăm
Một Sư là Lữ nhân năm
Nhân năm Sư lấy số làm một Quân
Nước Thiên Tử có sáu quân
Chư hầu lớn nhỏ vừa phân biệt là
Ba Quân cho đại quốc và
Hai cho trung quốc tiểu là một Quân
Việc binh chế ở trong dân
Tám nhà một Tỉnh Tỉnh nhân bốn là
Băm hai một Ấp tính ra
Khâu là bốn Ấp Điện là bốn Khâu
Điện thì phụ trách như nhau
Binh xa một cỗ số đầu quân trăm
Tải khiêng đồ nặng hăm lăm
Bảy hai bộ tốt giáp dăm ba còn
Bò mười hai ngựa bốn con
Lúc cần phục dịch nước non mọi miền
Ân Chu dùng phép tỉnh điền
Chia hình chữ Tỉnh tư diền tám khu
Công điền ở giữa một khu
Tám nhà một tỉnh công tư cày bừa
Công chừa hoa lợi đức vua
Tới đời Chiến Quốc các vua Ngụy Tần
Lý Khôi nước Ngụy canh tân
Đất không định hạn bắt dân rán mần
Công Tôn Ưởng tướng nhà Tần
Mở thiên mạch bỏ Chu Ân tỉnh điền
Mọi người tự tiện làm nên
Phép chia từ đó dần liền mất đi
Học linh hai cấp Chu ghi
Tiểu thì tám tuổi đại thì mười lăm
Thi thư lễ nhạc siêng chăm
Kính trên ứng đối trọng tăm tiếng đời
Nhà Chu học đã thịnh rồi
Đến Xuân Thu có lắm người tài danh
Khổng bàn hiếu đễ nghĩa nhân
Dương Chu vị kỷ thiệt thân không làm
Lẽ kiêm ái Mặc Địch bàn
Hàn Phi, Thân Bất Hại bàn trị dân
Lão bàn đạo các triết nhân
Điền Biền, Quỷ Cốc.v..v...mỗi người
Xướng ra một thuyết dạy đời
Biết điều phải quấy nói lời thiện ngay
Nước Tàu gốc sự cấy cày
Nuôi tằm dệt lụa thêu may vá rành
Bán buôn họp chợ tinh lanh
Lưới chài săn bắn đồ sành sứ quen
Gia đình nghiêm lắm dưới trên
Yêu nhau cùng họ cấm nên vợ chồng
Con theo cha vợ theo chồng
Gái trai bảy tuổi là không được nằm
Ăn ngồi một chiếu một mâm
Việc thờ phụng Tổ Tiên tâm chí thành
Nhà vua thường cũng lập đàn
Nam Dao tế Thượng Đế ban thái bình
Xem thì tam đại văn minh
Cuối Chu suy nổi đao binh chư hầu
Xuân Thu Chiến Quốc chia bâu
Sau Tần thống nhất xứ Tàu biến thiên
Bỏ phong kiến phép tỉnh điền
Lập ra quận huyện cấm truyền bá nho
Cốt dùng pháp luật trợ cho
Uy quyền chính trị mà gò bó dân
Đang khi phong tục cải lần
Xảy tranh chấp Hán Sở Tần xót xa
Vào triều vua Triệu Vũ ta
Tình hình chiến sự China thoái dần
Bá vương Hạng Võ trừ Tần
Lưu Bang diệt Sở dân lành thở yên
Hai không hai trước công nguyên (202 TCN)
Lên ngôi xưng Trẫm bỉnh quyền Bắc phương
Tức Cao Tổ Hán gia vương
Định quan chế đặt kỷ cương trị đời
Tới năm ất tỵ đương thời (196 TCN)
Thấy nhà Triệu cứ đất trời Lĩnh Nam
Lưu Bang nổi tiếng tham lam
Bèn sai Lục Giả sang đàm thí vương
Vũ vương bản tính quật cường
Đâu thần phục Hán nhậm vương chư hầu
Đến nơi Lục Giả vô chầu
Vũ vương tĩnh tọa cưỡng cầu cạnh căng
Bấy giờ Lục Giả nói rằng
"Nhà vua nguyên gốc tóc răng người Tàu
Họ hàng mồ mả cuống nhau
Ở châu Chân Định lẽ nào ganh đua
Nay nhà Hán đã làm vua
Triệu vương kháng cự sứ thừa lệnh phong
E là Hán đế không dung
Ba đời mồ mả họ hàng bất an"
Vũ vương nghe thế vội vàng
Đứng lên làm lễ tạ ân nói là
"Chắc gì Hán đế hơn ta
Nếu ta khởi nghiệp bên nhà một khi"
(còn tiếp)
Nguyễn Sơn Đảo