Lời Giới Thiệu: Viết một bài thơ để diễn tả tâm trạng hay để kể một câu truyện có hồn hay ý tưởng, thường là không đơn giản, và đòi hỏi một sự tập trung hay đôi khi cần đến sự xuất thần nhập vai nhân vật của tác giả. Viết thơ để kể chuyện lịch sử dân tộc lại càng khó thực hiện nếu người viết không mang một hoài bảo hay mong ước, khát khao đóng góp cho nền văn hóa nước nhà tại hải ngoại. Những giòng sử viết bằng thơ lục bát là thể thơ thuần tuý của người VN đã được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Sơn Đảo, với sự học hỏi về cách gieo vần trong ca dao,, trong Kiều của cụ Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, và thể lục bát chấm xuống dòng của ông Bút Tre.
Bức Tranh Vân Cẩu kính mời quý vị độc giả cùng thưởng thức những giòng thơ sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Sơn Đảo.
-----------------
LỊCH SỬ VIỆT NAM QUA THƠ (Kỳ 1)
Nguyễn Sơn Đảo.
Việt Nam nòi giống Lạc Hồng
Bao đời thắm gội máu dòng sử xanh
Mẹ hiền sinh đấng hùng anh
Xây nền tự chủ rạng danh nước nhà
Khởi từ lịch sử dân ta
Vua Hùng dựng nước tên là Văn Lang
Lập ra phép tắc vua quan
Võ quan Lạc tướng văn quan Lạc hầu
Quan Bồ Chính nhỏ đầu tầu
Địa phương mỗi vị dịp cầu dân gian
Nam con vua gọi quan Lang
Nữ con vua gọi Mỵ nương tước đời
Cha truyền trai trưởng nối ngôi
Chăm lo việc nước thay Trời giúp dân
Dưới vua là các quần thần
Chung tay xây dựng góp phần mai sau
Đóng đô ở đất Phong châu
Chia mười lăm bộ kế nhau trị vì
Đến đời mười tám vận suy
Thục vương làm phản cướp đi ngai rồng
Cứ vào huyền sử Lạc Hồng
Đế Minh là cháu thần Nông ba đời
Phương nam tuần thú vui chơi
Thương nàng tiên Ngũ Lĩnh thời kết duyên
Sinh trai Lộc Tục ngoan hiền
Phong con trưởng thứ mỗi miền một vương
Đế Nghi trai trưởng bắc phương
Thứ trai Lộc Tục nam phương vẫy vùng
Kinh Dương vương Lộc Tục xưng
Nước tên Xích Quỷ đất trưng bản đồ
Bắc biên giới Động Đình hồ
Hướng nam biên ải nước Hồ Tôn ranh
Đông Nam Hải bể bao quanh
Phía tây Ba Thục rừng xanh cõi bờ
Cưới nàng Long Động Đình hồ
Phu thê hòa thuận ước mơ thế trần
Sinh Sùng Lãm Lạc Long quân
Lên ngai kết mối tình thân tiên rồng
Cùng Âu Cơ nghĩa vợ chồng
Sinh ra một bọc Lạc Hồng trăm con
Người dưới nước, kẻ trên non
Sống chung xung khắc hao mòn lạt phai
Lạc Long quân quyết chia hai
Mỗi bên một nửa sinh nhai mỗi vùng
Năm mươi lên quản núi rừng
Năm mươi xuống biển thôn đồng mở mang
Đẹp Trời con trưởng sai sang
Phong làm vua nước Văn Lang một dòng
Dựng lên Lạc Việt vua Hùng
Giang sơn một dải ngư nông rộn ràng
Bàn về cổ tích Hồng Bàng
Đời Hùng thứ nhất còn trang sử rằng
Người dân chài lưới ven sông
Thường hay bị giống thuồng luồng bắt ăn
Vua truyền chàm vẽ vào thân
Để lừa thủy quái khó phân hại mình
Hương Phù Đổng bộ Vũ Ninh
Đời Hùng thứ sáu dân tình nguy nan
Giặc Ân hung mạnh tràn sang
Không ai chống nổi vua ban chỉ truyền
Sứ rao dân chúng mọi miền
Tìm người tài đức dẹp yên giặc này
Tới làng Phù Đổng lạ thay
Anh nhi ba tuổi xung tay tưởng đùa
Đem về tâu lại cùng vua
Vua cười vui vẻ bảo đưa bé vào
Hỏi nhà ngươi biết ra sao
Giặc Ân hung bạo kế nào phá đi
Thưa rằng bệ hạ lo chi (1)
Một roi ngựa sắt thần thì dẹp tan
Chờ gươm roi ngựa sẵn sàng
Vươn vai một cái kinh hoàng vua quan
Thân cao một trương hiên ngang
Vung roi thúc ngựa lên đàng đánh Ân
Hai bên tướng sĩ dạ rân
Giặc Ân sợ hãi lui quân cấp thời
Đuổi xuôi xả giặc yên đời
Ngựa người biến mất trong trời Sóc sơn
Nhà vua cảm động tiếc thương
Phong là Phù Đổng Thiên vương lập đền
Hiện nay còn vẫn lưu truyền
Tháng tư mùng chín hội đền nhớ ơn
Sau khi dẹp giặc Ân xong
Vua Hùng chú trọng việc con cung đình
Truyền quan Lang đến dự tranh
Ai làm được món ngon lành lạ hay
Nói lên ý nghĩa cỗ bày
Thì ta sẽ chọn lên ngai nối dòng
Các quan Lang thế như rồng
Đua nhau đi tới núi rừng đảo xa
Sơn hào hải vị tìm ra
Với hy vọng được vua cha hài lòng
Riêng con mười tám vua Hùng
Tiết Liêu hiền hiếu thảo cùng mẹ cha
Chọn nơi thôn dã là nhà
Mẹ đà mất sớm cậy bà vú chăm
Ngày đêm lo lắng buồn tâm
Một hôm mộng thấy thần thầm mách cho
Này con đừng có âu lo
Gạo thì nuôi sống quý cho con người
Lấy làm bánh tượng Đất Trời
Sinh thành dưỡng dục ở đời lá nhân
Nhớ lời chỉ dạy của thần
Tiết Liêu ngâm gạo nếp mần bánh chưng
Tượng hình Đất bánh hình vuông
Lá dong xanh gói nếp nương nhân vàng
Tượng hình Cha Mẹ cưu mang
Thương yêu đùm bọc hết lòng vì con
Giã xôi làm bánh hình tròn
Tượng hình Trời trắng giẹp thon bánh dầy
Đến ngày chấm điểm sum vầy
Của ngon vật lạ cỗ đầy mâm bưng
Tiết Liêu hai bánh dầy chưng
Vua cha thấy vậy hỏi chừng là sao
Liền đem chuyện mộng thần vào
Kể ra chi tiết Trời cao Đất dày
Công ơn Cha Mẹ là đây
Ngụ trong ý đẹp bánh dầy bánh chưng
Vua cha nếm thử vui mừng
Ban cho ngôi báu truyền chung tết này
Cúng Trời Đất Tổ Tiên bày
Dâng mâm của lễ bánh dầy bánh chưng
Tích đời mười tám Hùng vương
Mỵ nương tính nết khiêm nhường đẹp xinh
Chàng Sơn Tinh với Thủy Tinh
Cả hai đều muốn se tình bách niên
Vua truyền ai thắm lương duyên
Ngày mai tới trước con hiền sẽ ban
Hôm sau sính lễ lên đàng
Sơn Tinh lẹ bước rước nàng Mỵ luôn
Thủy Tinh trễ mất người thương
Giận làm gió nổi mưa tuôn lũ trào
Sơn Tinh làm núi dưng cao
Nước dâng nhiêu trượng núi bao nấy tầm
Và dùng sấm chớp ầm ầm
Ở trên liên tiếp búa tầm sét công
Thủy Tinh thua thẹn trong lòng
Bèn toan rút nước hòa dòng biển sông
Học chương huyền sử Lạc Hồng
Là tìm gốc tích cội nguồn dân ta
Ban đầu mờ mịt sử gia
Tục truyền ôn lại viết ra cho đời
Nước nào cũng thế mà thôi
Có Thần Tiên Thánh chủng nòi vẻ vang
Ai thì biết thuở hồng hoang
Ta từ đâu đến vương mang cõi phàm
Lật trang sử cổ Hồng Bàng
Xem trang sử tiếp ngai vàng Thục gia
Thục trong sách sử dân ta
Không là Ba Thục quê nhà chú Ba
Dẫn y như sử China
Nhà Tần ngày ấy chiếm Ba Thục rồi
Thêm vào đường sá xa khơi
Núi sông ngăn trở khó thời làm nên
Thục là Thục Phán họ tên
Họ nào độc lập ở liền nước ta
Sử Hùng mười tám ghi là
Mỵ nương nhan sắc mặn mà dễ thương
Có người danh phận Thục vương
Dạm xin vua cưới Mỵ nương bất thành
Sinh lòng đố kỵ đua tranh
Dặn sau con cháu lấy thành Hùng vương
Cậy mình tướng dũng binh cường
Rượu chè vui thú coi thường đối phương
Nhân tình thế cháu Thục vương
Là ông Thục Phán am tường đánh ngang
Hùng vương thua chạy cùng đàng
Tự trầm xuống giếng tạ hàng tiên vương
Sau này vua Thục nhớ ơn
Xây đền quốc tổ Hùng vương lưu đời
Tháng ba âm lịch mùng mười
Hàng năm làm giỗ kính Người thượng hương
Dẹp yên binh loạn bốn phương
Lên ngôi niên hiệu An Dương vương quyền
Hai năm bảy trước công nguyên (257 TCN)
Nước tên Âu Lạc đô miền Phong Khê
Dân đông trù phú tiện bề
Hai đường thủy bộ đi về thông thương
Đến năm bính ngọ Thục vương (255 TCN)
Nối gò đắp lũy hào mương xây thành
Ngoài nhìn trôn ốc xoay quanh
Cho nên ta gọi là thành Cổ Loa
Thăng trầm vận nước trải qua
Vẫn còn dấu tích thành Loa Lạc Hồng
Tục truyền vua Thục khởi công
Yêu ma quấy nhiễu xây xong đổ thành
Lập đàn vua khẩn cầu lành
Thần Kim Quy giúp xây thành mới an
Lại ban một cái móng chân
Làm cò lẫy gọi nỏ thần Kim Quy
Giặc vào bắn phát thị uy
Tên bay hàng loạt giết đi vài ngàn
An Dương khai phá mở mang
Rộng lên phía bắc sang phần Quảng Tây
Biên cương Âu Lạc đo đầy
Bao gồm Tượng quận cấy cày nông gia
(còn tiếp)
NSĐảo.
(1) câu bé Phù Đổng nói với sứ giả, nên dùng từ bệ hạ.